Người đàn ông này
là chồng tôi, anh Huỳnh Anh Tú, sinh năm 1968, con của một cựu sĩ quan cảnh sát
thời Việt Nam Cộng Hoà. Sau khi miền Nam bị “giải phóng”, gia đình anh Tú cũng
như bao gia đình cựu sĩ quan VNCH khác lâm vào cảnh khốn cùng. Năm 1992, gia
đình anh Tú bán hết nhà cửa đi vượt biên, hy vọng sẽ bớt khổ sở hơn khi sống ở
xứ thiên đường xã nghĩa. Cuộc sống tha hương tại Thái Lan bắt đầu từ đó.
Chứng kiến cuộc
sống cùng cực, tủi nhục của đồng bào nơi đất khách, ba anh em họ Huỳnh là Huỳnh
Anh Tuấn, Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí tham gia tổ chức Việt Nam Tự Do với
mong muốn góp chút công sức nhỏ bé nhằm đổi thay đất nước từ độc tài tiến đến
tự do, dân chủ.
Trong một lần về
nước rải truyền đơn kêu gọi người dân đứng lên đòi nhân quyền, cả hai anh em
Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí đều bị bắt. Đó là năm 1999, khi anh Tú 31 tuổi và
anh Trí mới 27 tuổi. Họ bị đánh đập, tra tấn trong tù và bị kết án 14 năm tù
giam với cáo buộc “khủng bố” ( nghe kinh không?). Cùng ra toà với hai anh em nhà
Tú- Trí còn có 36 người khác và mức án nặng nhất là 20 năm tù giam. Có vài
người đã chết trong tù, có người mắc bệnh trọng rồi qua đời sau khi mãn án ít
lâu. Đó là trường hợp của Huỳnh Anh Trí. Trí đã bị cai ngục trả thù bằng cách
cùm siết cổ chân bằng chiếc cùm dính máu và thịt của tù nhân bị bệnh AIDS. Sáu
tháng sau khi ra tù, Trí qua đời trong đau đớn và tủi hờn. Khi Trí chết, cả
bệnh viện lẫn công an đều gây khó khăn cho việc nhận xác em trai của anh Huỳnh
Anh Tú. Họ lấy lý do cả hai người đều không có hộ khẩu, không có giấy tờ tuỳ
thân chứng minh họ là anh em nên không thể đem người chết về lo tang lễ. Giằng
co, cãi lý, rồi trình cả giấy khai sinh (may là còn giữ được) đã vàng ố, cũ mèm
ra, họ mới phải chịu thua. Lại cũng phải nói thêm về người anh trai là Huỳnh
Anh Tuấn cũng đã chết khi hai người em Tú và Trí vẫn còn ở trong tù. Nhà họ
Huỳnh có đến hai người chết trong tay cộng sản.
Ra tù, không giấy
tờ tuỳ thân, không công ăn việc làm, không tiền bạc nhà cửa, có lúc anh Tú đã
nghĩ đến cái chết. May mắn là còn được các cha Dòng Chúa Cứu Thế cưu mang. Rồi
được sự giúp đỡ ban đầu của chị Bùi Thị Minh Hằng, anh Trương Minh Đức và suốt
chặng đường sau này là vợ chồng anh chị Thịnh-Phượng, nên anh Tú đến ở tại Vườn
rau Lộc Hưng.
Việc làm giấy tờ
tuỳ thân quả là rắc rối. Muốn có chứng minh nhân dân, phải có hộ khẩu. Muốn có
hộ khẩu, phải có nhà và ngược lại, muốn có nhà phải có hộ khẩu. Thôi thì ngậm
đắng nuốt cay, cứ sống vậy cho qua ngày. Một thân một mình, muốn đến đâu thì
đến.
Nhưng người tính
không bằng Chúa tính. Thấy anh Tú hiền lành nên Chúa muốn anh kết thúc cuộc
sống độc thân bằng cách lấy một cô vợ vừa già vừa xấu vừa đanh đá để không bị
ai bắt nạt, chỉ một mình cô ta bắt nạt chồng. Anh Tú không có giấy CMND nên
cũng chẳng thể đi đăng ký kết hôn được. Cả hai vợ chồng đều những tưởng sẽ
không có con cái gì, nên tặc lưỡi “Chả cần, Giáo hội công nhận là đủ rồi”.
Rồi niềm hạnh phúc
bất ngờ đến với chúng tôi khi bé Tâm An ra đời. Khi làm giấy khai sinh cho con
gái, tôi cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ hết nỗi buồn tủi của chồng. Con bé phải
mang họ mẹ và phần chi tiết về người cha bị để trống. Khi con bé được một tuổi,
ngôi nhà mơ ước của chúng tôi tại Vườn rau Lộc Hưng trở thành hiện thực. Nhưng
cả gia đình mới chỉ được ngủ lại căn nhà nhỏ bé, xinh xắn ấy một đêm duy nhất
trước khi nó bị biến thành đống gạch vụn chỉ trong một cái dụi mắt.
Cuộc đời của chồng
tôi, anh Huỳnh Anh Tú quả là nhiều mất mát, toàn những biến cố kinh hoàng.
Có con, chúng tôi
cần phải làm giấy tờ để con gái sau này còn đi học. Và để lớn lên nó không tủi
thân, ba nó cũng đỡ mặc cảm. Rồi còn đi làm, đi thuê nhà và nhiều việc khác cần
đến giấy tờ nữa chứ.
Theo tư vấn của
luật sư, chồng tôi lên toà án yêu cầu cấp lại bản án. Vì trong bản án có ghi rõ
ràng, đầy đủ nhân thân của anh Tú. Chúng tôi đã ở ngôi nhà thuê này được gần
một năm và anh chủ nhà đã đồng ý cho nhập hộ khẩu. Tôi chưa bao giờ thấy vẻ mặt
của chồng mình hớn hở như thế. Tôi đùa: “ Gớm! sắp được làm công dân nước
CHXHCN Việt Nam nó khác, mặt vênh váo thấy ghét”.
Chồng tôi mang
giấy toà án, giấy ra tù, xác nhận của công an phường 12 quận Gò Vấp (về việc
tạm trú) và “Đơn xin xác nhận thường trú” lên công an phường 4, quận 8 là để
xin xác nhận việc anh từng có hộ khẩu thường trú tại đây. Sau nhiều ngày chờ
đợi, hôm nay chồng tôi đã nhận được “xác nhận” của công an phường 4, quận 8.
Nhưng không phải là xác nhận việc anh Huỳnh Anh Tú “có đăng ký thường trú tại
địa chỉ số 102,104 đường số 10 phường 4, quận 8 tp HCM” là nơi ở trước kia của
gia đình anh Tú. Mà là “xác nhận tại hồ sơ công an p4q8 không có thể hiện đk
Huỳnh Anh Tú: sinh 1968 từng có HKTT tại số 102,104 Đặng Thúc Liêng (đường 10),
p4,q8”.
Như thế kể cũng
lạ. Nếu không có hộ khẩu thường trú, thì làm sao anh Tú đi học?
Khi bị bắt và ra toà, nhân danh nước CHXHCN Việt Nam, toà đã xác định Huỳnh Anh Tú có hộ khẩu thường trú ( cụ thể ở p4,q8) để kết án anh 14 năm tù giam. Rồi khi mãn án, anh cũng được yêu cầu phải đến công an phường 4 quận 8 trình diện. Và chính công an phường 4 đã ký và đóng dấu xác nhận anh Tú có đến trình diện vào năm 2013.
Khi bị bắt và ra toà, nhân danh nước CHXHCN Việt Nam, toà đã xác định Huỳnh Anh Tú có hộ khẩu thường trú ( cụ thể ở p4,q8) để kết án anh 14 năm tù giam. Rồi khi mãn án, anh cũng được yêu cầu phải đến công an phường 4 quận 8 trình diện. Và chính công an phường 4 đã ký và đóng dấu xác nhận anh Tú có đến trình diện vào năm 2013.
Bây giờ cần xác
nhận là người từng đăng ký HKTT tại phường này, ông Phó trưởng công an phường 4
quận 8 lại phủi tay là sao?
Chả lẽ, làm công
dân hạng bét trong cái “thiên đường” xã nghĩa này đối với anh Huỳnh Anh Tú lại
khó hơn lấy sao trên trời?
No comments:
Post a Comment