Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (1944-2024)
Cuối cùng thì ông Nguyễn
Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được… chết đúng quy trình. Ở
cái tuổi tám mươi của ông, ốm đau bệnh tật rồi qua đời là lẽ thuận tự nhiên.
Nhưng vì ông là lãnh đạo tối cao của một chế độ độc tài đảng trị, nên không có
cơ may được hưởng cái lẽ tự nhiên ấy. Sau khi sắp xếp để “xác sống” Nguyễn Phú
Trọng trao quyền cho mình xong, ông Tô Lâm mới cho Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
Việt Nam ra thông báo về tình hình sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng. Chỉ một
ngày sau khi Bộ Chính trị ra thông báo, ông Trọng được loan tin qua đời và tin
tức ngay lập tức phủ dày các mặt báo.
Nguyễn Phú Trọng là người
có “bề dày công tác” nhất so với các lãnh đạo cộng sản khác, với hơn một phần
tư thế kỷ nắm giữ các chức vụ quan trọng. Là ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1997
và làm Bí thư Thành ủy Hà Nội từ cuối 2000, kinh qua các vị trí Chủ tịch Quốc hội,
Tổng bí thư ĐCSVN và từng giữ cả chức Chủ tịch nước từ năm 2018 đến năm 2021. Thông
tin ông qua đời mang lại nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau cho đảng viên và
cho dân chúng. Khi ông Trọng còn chưa chết, người ta đã bàn tán nhiều về “công”
và “tội”, về “sự nghiệp” và “di sản” của ông. Chủ đề này sẽ còn tốn nhiều giấy
mực của các nhà phân tích, bình luận chính trị và giới truyền thông. Là một người
bình dân, tôi quan tâm đến luồng ý kiến cho rằng, “mọi công-tội của ông Nguyễn
Phú Trọng, hãy để lịch sử phán xét”. Bài viết này, là để lạm bàn đôi điều về ý
kiến trên.
Trước tiên là với
Đảng
Thành tựu quan trọng nhất
của ông Trọng là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “Đốt lò”, bắt đầu
từ năm 2016 khiến hơn 130.000 đảng viên bị kỷ luật, trong đó có 40 ủy viên
Trung ương Đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt,
có bảy Ủy viên Bộ Chính trị, bao gồm nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và
Võ Văn Thưởng, nguyên Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, và nguyên Thường trực
Ban Bí thư Trương Thị Mai, đều bị phế truất.
Thực chất, cái gọi là
công cuộc chống tham nhũng của ông Trọng chỉ là trò mị dân và là phương tiện để
thanh trừng các đối thủ chính trị trong cuộc chơi quyền lực. Ông Trọng đã chủ
trương thay thế những lãnh đạo, quan chức ác ôn vốn đã vơ vét no đầy bằng những
tên quan chức ác ôn hơn, tham lam hơn và sắt máu hơn với nhân dân, đồng bào. Với
tư cách là người đứng đầu đảng Cộng sản, nhiệm vụ chính của ông Trọng là duy
trì sự tồn tại và vai trò cầm quyền độc tôn của đảng. Nhưng thực tế đã cho thấy,
ông chỉ củng cố quyền lực cá nhân và đã để lại một di sản rệu rã cho đảng của
ông. Cái mà người dân thấy lại là một bộ máy tham nhũng với những quan chức cao
nhất tay “nhúng chàm”, ăn trên những xác người mà điển hình là các đại án Việt
Á, Chuyến bay giải cứu, đại án Vạn Thịnh Phát…
Con đường chính trị của
Nguyễn Phú Trọng cũng thúc đẩy sự đấu đá nội bộ, thanh trừng đối thủ, tranh
giành quyền lực trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Đảng cộng sản dưới con mắt công
luận trong và ngoài nước, được liên tưởng đến như một tổ chức bạo lực với những
vụ giết chóc đầy bí hiểm, chưa kể những chính sách tàn ác dành cho dân chúng.
Sau là với dân
Việc “đốt lò” của ông Trọng
đã trao quyền lực gần như tuyệt đối cho công an, giúp hoàn thành nốt việc công
an hoá bộ máy nhà nước. Điều phi lý là các Uỷ viên Bộ Chính trị và nhiều quan
chức cao cấp đều được hạ cánh an toàn sau những vụ tham nhũng, những sai phạm
gây hậu quả nghiêm trọng cho quốc gia. Trong khi đó, nhiều người dân vô tội đã
bị khủng bố, bị bắt giữ, thậm chí bị án tù chỉ vì lên án tệ nạn tham nhũng. Câu
khẩu hiệu “mọi người bình đẳng trước pháp luật”, hay diệt tham nhũng “không có
vùng cấm” chỉ là trò mị dân của ông Trọng.
Từ thảm họa môi trường
Formosa, đại dịch COVID-19 khiến hàng trăm ngàn người chết oan, các điều luật
phản dân chủ, những vụ đàn áp tàn bạo nhằm vào giới bất đồng chính kiến, không
thể không nhắc đến vai trò của ông Trọng.
Ông Trọng đạt được quyền
lực tối cao nhờ vào chiến thắng trong các cuộc thanh trừng đối thủ chính trị.
Nhưng không loại trừ yếu tố có sự hẫu thuẫn của Tàu cộng. Những thỏa thuận, ký
kết giữa ông và đảng cộng sản Trung Hoa mang lại hậu quả khôn lường cho quốc
gia, dân tộc.
Thể chế “công an trị” đã
được ông Trọng hoàn thiện. Nếu Tô Lâm “nhất thể hóa” hai chức danh Chủ tịch nước
và Tổng Bí thư đảng,Việt Nam sẽ có một Putin hoặc Tập Cận Bình mới với trang lịch
sử đen tối hơn, được viết bằng nhiều máu và nước mắt hơn. Việc ra mắt lực lượng
an ninh trật tự cơ sở, luật Căn Cước Công Dân mới và sinh trắc học giao dịch
ngân hàng là ba ví dụ dễ thấy nhất để làm minh chứng cho nhận định trên.
Tại sao riêng ông Trọng lại được chờ lịch sử phán xét?
Có không ít người ca ngợi
ông Trọng là người “cộng sản lý tưởng”. Điều này đúng. Vì lý tưởng của người cộng
sản hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Ông Trọng cũng như những người
tiền nhiệm, có thể cả người kế nhiệm, đều đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích
của quốc gia dân tộc. Sự xung đột, đối nghịch giữa “lợi ích đảng cộng sản” với “lợi
ích quốc gia” đã được chứng minh trên thực tế nhiều chục năm qua, không phải đề
tài mà bài viết này nhắm đến. Không biết loại “lý tưởng” mà những người bênh vực
ông Trọng nói đến, có bao gồm việc ông khoan dung cho đàn em, nộp lại bằng khen
hay một khoản tiền nhỏ trong khối tài sản khổng lồ đã vơ vét được, đứng trước
vành móng ngựa sụt sùi khóc lóc xin lỗi bác Trọng để được giảm án? Bất kể tội
ác của chúng gây ra cho đất nước, cho nhân dân lớn đến cỡ nào? Hoặc cái thứ “lý
tưởng” đặt những người dân có ý kiến khác biệt thành “thế lực thù địch, phản động”
để rồi triệt mọi đường sống, hoặc bắt hết, nhốt hết vào tù.
Phán xét một nhân vật (đã
qua đời hay trong quá khứ) không thể dựa vào cảm tính, mà phụ thuộc vào nhiều yếu
tố. Trong đó, các yếu tố như tính chất phức tạp, đa chiều của lịch sử, các quan
điểm và giá trị xã hội phải được xem xét đến. Nhưng điều quan trọng nhất là ở
nhận thức của công chúng đương thời, căn cứ trên những diễn biến thực tế xảy ra.
Các chính sách, chủ trương và hành động của ông Trọng trong suốt thời gian ông
nắm quyền đã đủ để chứng minh ông có tội với nhân dân, đất nước và ông chỉ có
công với gia đình, dòng tộc và đảng của ông.
Nạn nhân của ông Trọng và
đảng của ông không chỉ là những người tù lương tâm, những người bất đồng chính kiến
hay những dân oan Đồng Tâm, Lộc Hưng, Thủ Thiêm, Văn Giang, Dương Nội …bị giết
chết, bị cướp nhà cướp đất. Nạn nhân của ông không chỉ là những công nhân thất
nghiệp, hay làm việc mỗi ngày 10 đến 12 tiếng trong các khu chế xuất hay xưởng
lao động mà vẫn nghèo khổ. Không chỉ là những lao động xuất khẩu, những người
vượt biên chết trong thùng đông lạnh, hay những bà mẹ, ông bố không thể nuôi
con ăn học đã quẫn chí tự sát lấy tiền phúng điếu để lại cho con. Là hàng triệu
người dân Việt Nam lẽ ra đã phải được sống trong một đất nước tự do, dân chủ nếu
đảng cộng sản không khư khư giữ lấy quyền lực độc tôn.
Tội lớn nhất của ông Trọng và đồng chí của ông, là biến Việt Nam từ một dân tộc anh hùng trở thành đớn hèn và quy phục trước bất công và cái ác.
Không cần chờ đến lịch sử, chính nhân dân Việt Nam được quyền phán xét ông ngay lập tức.
No comments:
Post a Comment