Nói
thật là tôi (cũng chỉ) yêu thương chồng như tất cả
những người vợ khác yêu chồng mình. Ai chả biết. Ý
tôi muốn nói rằng tôi yêu ở thể ...bình thường, chứ
không dở hơi đến mức ghen cả với quá khứ của chồng.
Nhưng mà tôi tò mò thật. Sau nhiều lần tra hỏi, cuối
cùng chồng tôi cũng “khai báo thành khẩn” về mối
tình đầu của anh ấy. Không riêng về chuyện yêu đương
của chàng (hôm nay lãng mạn gọi là “chàng” chứ không
gọi là “lão” như mọi khi nữa), mà cuộc đời, hoàn
cảnh, gia đình và mọi biến cố mà chồng tôi trải qua,
đều gây cho tôi những ấn tượng đặc biệt. Đến nỗi
tôi nghĩ rằng có thể viết thành một cuốn sách mang
những giá trị riêng của nó. Vì những gì chồng tôi và
gia đình anh đã trải qua không đơn giản là câu chuyện
của một con người, nó mang bóng dáng về một giai đoạn
lịch sử, một cái gì đó "chung" hơn là "riêng.
Pages
▼
Tuesday, August 25, 2020
Thursday, August 20, 2020
CHUYỆN NÓI NHỊU
Dầu
sao thì cũng cần cảm ơn ban Tuyên láo, cảm ơn Vua Tin Vịt
và anh chàng Anh Quang kia. Qua việc họ vu khống những
người bán hàng rong là “ký sinh trùng” nên đa số dân
chúng mới sực tỉnh ra thành phần nào thực sự là loài
“ký sinh trùng” hút máu hút mủ của mình bao năm nay.
Không có “sự cố” này, lâu nay dân tình quên mất.
Thursday, August 06, 2020
CHUYỆN KỂ CỦA CHỒNG
Có
lần mình hỏi chồng: Lý do (bây giờ người ta hay gọi
là "động cơ") nào để anh quyết định tham gia
đấu tranh?
Lão
trả lời: Vì ba cô gái điếm người Việt ở Campuchia.
Thú
thật, khi ấy mình rất bất ngờ, có phần hụt hẫng và
bối rối. Tưởng câu trả lời phải to tát, lý tưởng,
chính trị ghê lắm chứ. Lão cũng biết khi trả lời như
thế sẽ khiến người đối diện tỏ ra khó hiểu. Từ
khó hiểu sẽ dẫn đến thái độ tò mò. Câu chuyện về
thân phận ba cô gái điếm được chồng mình kể lại,
quả là bi thương. Chồng mình bảo "Vì chứng kiến
những phận đời vỡ nát ấy mà anh muốn góp phần nhỏ
bé vào cuộc đổi thay đất nước. Hy vọng đất nước
mình khá hơn, có dân chủ, có tự do để không còn những
cô gái VN phải sang xứ người làm điếm. Không còn cảnh
người Việt phải sống tha hương, chịu mọi khổ sở,
thiệt thòi, hoặc chết thảm nơi xứ người nữa. Đơn
giản thế thôi
Ba
cô gái ấy tên là Hương, Trầm và Yến, nhưng cũng có
thể đó chỉ là những cái tên giả. Cả ba người đều
có cha là những người lính từng phục vụ trong quân đội
VNCH. Sau năm 1975, vì gia cảnh éo le nên họ phải phiêu
dạt sang Campuchia làm gái. Họ gặp nhau và kết nghĩa chị
em. Cô Hương bằng tuổi anh Tú, sinh năm 1968. Vài năm sau
ngày SG bị "giải phóng", gia đình cô Hương cả
thảy 4 người lên tàu vượt biên. Chuyến tàu gặp cướp
biển và Hương đã chứng kiến cảnh mẹ mình bị hãm
hiếp, ba và anh trai bị cướp biển dùng báng súng đập
vào đầu cho đến chết rồi quăng xác xuống biển. Nhắc
đến cuộc đời ba cô gái, có lúc hai vợ chồng hỏi
nhau "Không biết trong ba người, ai có số phận khốn
khổ, nghiệt ngã nhất?".
Yến
sinh năm 1972 quê Mộc Hóa, Long An. Vì hoàn cảnh gia đình
nghèo khó, năm 13 tuổi Yến đã phải theo mẹ đi “tải
hàng lậu” thuê cho người ta từ biên giới Campuchia về
Việt Nam. Ba Yến là một cựu quân nhân VNCH. Sau tháng
4/1975, ông bị bắt đi tù cải tạo. Khoảng một năm sau
ông được thả. Ra tù, ba của Yến tham gia vào một tổ
chức chống cộng và bị bắt năm 1979. Anh Tú nói rằng
không biết ông tham gia tổ chức nào, bị kết án mấy
năm nhưng đã ở tù 6 năm, từ 1979 đến 1985 thì mãn án,
theo lời kể của Hương và Trầm. Một năm sau khi ra tù,
ông qua đời vào tháng 4/1986. Kể từ khi ba qua đời, mẹ
Yến ngày càng suy sụp tinh thần, có lúc hóa điên. Một
mình Yến tiếp tục công việc tải hàng lậu cho người
ta để nuôi mẹ, nuôi thân. Một buổi chiều tháng 2/1987,
sau khi đi làm về Yến không thấy mẹ đâu. Linh tính báo
cho cô biết điều không lành xảy ra. Cả đêm Yến đi
tìm mẹ nhưng không gặp. Sáng hôm sau, người quen báo tin
đã tìm thấy mẹ cô nằm chết bên mộ của ba.
Năm
16 tuổi, Yến yêu Hùng, con trai của một trong những chủ
buôn lậu mà Yến làm thuê. Hùng lừa Yến sang Nam Vang và
bán cô cho một mụ tú bà người Việt. Yến tìm cách
trốn khỏi nhà chứa nhưng bị bắt lại, bị đánh đập
tàn nhẫn. Khoảng 1 năm sau Hùng lại mò đến nhà trọ
của Yến ở Nam Vang. Hắn khóc lóc, van xin và lại thề
thốt. Mủi lòng vì thấy Hùng bây giờ đã thành người
tàn tạ (hắn chống nạng vì bị gãy một chân), Yến lại
tha thứ và cưu mang Hùng. Vài tháng sau Yến báo tin cô có
bầu, Hùng lại một lần nữa ruồng bỏ, phụ bạc người
yêu. Suốt thời gian Yến mang bầu và sinh con, đều do một
tay Hương (đi làm gái) nuôi nấng. Đến khi thằng Hên lên
1 tuổi, mẹ con Yến và Hương dắt díu nhau lên Koh Kong.
Phận làm gái vẫn đeo đuổi họ. Ở đây, họ gặp Trầm.
Vì thương cảm hoàn cảnh của nhau, ho kết nghĩa chị em,
lo cho nhau như người thân ruột thịt.
Yến
chết, một cái chết thảm thương và đau đớn. Suốt ba
ngày không thấy Yến về phòng trọ, Trầm và Hương phải
bỏ tiền thuê người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả
việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải “làm
thêm”, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường. Người
ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên
vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị
vứt ở chân núi Mô Păng (1). Vì chủ chứa- một mụ đàn
bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho
làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm
phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất
trống để có chỗ kê quan tài. Đám tang lèo tèo vài ba
người hàng xóm thất nghiệp ngồi dự cho đỡ tủi. Anh
Tú kể đoạn thằng bé Hên 4 tuổi vừa khóc, vừa chửi,
vừa kể lể bằng cả ba thứ tiếng Việt, Khmer và Thái,
vừa lấy tay đạp đổ bát nhang và di ảnh của mẹ khiến
tôi chảy nước mắt. Nó cho là mẹ Yến đã lừa nó,
không đưa nó về thăm ngoại mà đã vội chui vào hòm nằm
trốn. Rồi một gã người Việt đưa mấy tên lính
Campuchia đến phạt vạ vì dám tổ chức tang lễ ở nơi
không được phép. Trầm và Hương lại phải giàn xếp
bằng cách hứa ngủ với mấy thằng lính để “trừ
nợ”, để đám tang của Yến được suôn sẻ. Hôm sau,
đưa tro cốt của Yến lên chùa xong, cả hai người chị
kết nghĩa của Yến là Trầm và Hương phải ngủ với
mấy tên lính Campuchia như đã hứa.
Hồi
tưởng lại chuyện xưa, chồng tôi bùi ngùi: “Năm 1993,
Yến chết thảm ở tuổi 21. Khi sống, Yến không có nổi
một ngày vui, vậy mà định mệnh nỡ lòng nào vẫn ném
cho cô một cái chết đầy bi thảm. Với anh, Yến chỉ là
một người quen như bao người quen khác đã đi ngang qua
cuộc đời. Và cuộc đời cô cũng ngắn ngủi hơn những
cuộc đời anh đã gặp. Nhưng đến hôm nay, dù đã bao
nhiêu thay đổi, dù đã gần 30 năm trôi qua, anh vẫn không
thể quên được mảnh đời tàn tạ của Yến, không quên
được đám tang buồn tủi của Yến ở xứ người”.
Nói chuyện với vợ mà như tự nói với mình vậy.
Kết
thúc câu chuyện về ba cô gái điếm, chồng tôi bảo:
“Đấy, giờ em hiểu vì sao anh rất thương và tôn trọng
phụ nữ. Cho nên dù em có bắt nạt anh đến mấy anh cũng
nhường. Nhường thôi chứ đừng tưởng là anh sợ nhá”.
Câu
chuyện cảm động như thế mà vẫn cài thêm một ý đe
vợ vào được.