Phần 1: Trần Quốc Dũng, người bạn tù trọn tình vẹn nghĩa
Cây Đàn Tù sau khi đến bến bờ tự do. Trên cây đàn lưu dấu chữ ký và lời đề tặng của vợ chồng tôi. Chữ ký của Phạm Đoan Trang và của các cựu TNCT Nguyễn Hữu Cầu, Thích Thiện Minh, Trần Vũ Anh Bình. Không tính Phạm Đoan Trang, 5 người cộng lại tròn 87 năm tù.
Thường thì sau khi mãn án, người tù không mang theo thứ gì ngoài bộ quần áo mặc trên người. Bộ quần áo ấy, sau khi về đến nhà họ sẽ vứt bỏ hoặc là đốt đi để xoá hết “mùi tù”, để xua đuổi cái xui xẻo và để khỏi phải vào tù lần nữa. Đa số người tù đều quan niệm như thế.
Phần tôi, sau khi mãn án không biết về đâu, vì nhà cửa không còn. Tiền bạc không có, lại mang cái mác “tù phản động” nên phải …phòng thân. Vì vậy, tôi đã mang về một số quần áo cũ lành lặn để mặc. Ngoài ra, tôi còn mang về một số sách vở cũ, vài kỷ vật trong tù.
Trong số những kỷ vật mang khỏi nhà tù, có hai thứ đối với tôi rất quan trọng. Cả hai đều mang giá trị thiêng liêng, đó là Chuỗi Mân Côi của người chị gái gửi tặng và cây đàn guitar.
Cây guitar từng trải qua gần 40 năm bị
giam cầm, dài hơn bất cứ đời tù nào của chúng tôi. Chúng tôi quen gọi nó là Cây
Đàn Tù.
Ngày 29/8/2001, tôi và một số anh em cùng tổ chức từ trại tù Bố Lá chuyển đến
K3, nhà tù Xuân Lộc – Đồng Nai. Giam chung với các tù nhân chính trị và tôn
giáo (CT & TG) khác. Trong tù, tôi may mắn được kết thân cùng anh Trần
Quốc Dũng, một tù nhân chính trị bị kết án 18 năm với cáo buộc
“âm mưu lật đổ chính quyền”. Tôi không rõ anh thuộc tổ chức nào. Có bạn tù nói
với tôi anh thuộc một tổ chức nào đó của ông Nguyễn Cao Kỳ thành lập. Tuy là bạn
thân, nhưng anh ít khi tâm sự những chuyện liên quan đến công việc và tổ chức của
anh. Tôi nghe nói, anh Dũng từng bị bắt và vượt ngục thành công vào khoảng những
năm 80 thế kỷ trước. Khi trốn khỏi nhà tù, anh sống lưu lạc nay đây mai đó rồi
gặp một cô gái tốt bụng và anh đã lấy làm vợ. Trước khi bị bắt lại, anh chị đã
có hai người con.
Tôi quý mến và trân trọng con người của anh. Kể cả cái cách anh phải nhún nhường
một chút với cai ngục trong giai đoạn cuối “đời tù” của mình.
Khi biết được chị bị ung thư giai đoạn cuối, anh đã phải chấp nhận giảm những
cuộc đối đầu trực diện với cai tù, để giảm bớt áp lực do chính quyền địa phương
đổ lên đầu vợ con ở ngoài.
Gần 20 năm ở tù, anh vẫn giữ vững khí phách của một chiến sĩ tự do. Trong những
năm trong tù, vợ con anh bên ngoài luôn bị chính quyền địa phương sách nhiễu vì
anh “cứng đầu”. Sự “nhún nhường” đầy bản lĩnh của anh được đổi bằng vài tháng
giảm án. Tôi gọi sự nhún nhường ấy là “bản lĩnh” vì ngần ấy năm tù, anh luôn giữ
vững lập trường của một con người trí tuệ, khí phách. Luôn chủ động tuyên chiến
với cai ngục trong các cuộc đấu tranh đòi hỏi quyền lợi chính đáng của người
tù. Mặc dù anh Dũng cố nín nhịn để mong được gặp vợ sớm ngày nào hay ngày đấy
vì vợ bệnh nặng, nhưng anh vẫn tham gia các cuộc phản kháng trong tù dù không
thể quyết liệt như mong muốn. Cũng may, anh chị được đoàn tụ trước khi chị qua
đời.
Tôi và anh có một điểm chung là đam mê âm nhạc. Anh Dũng chơi guitar classic rất
khá, còn tôi chủ yếu thiên về modern. Hai anh em thường trao đổi qua lại về nhạc
lý. Khi tôi vào Xuân Lộc thì cây guitar của anh Dũng đang “bị kỷ luật”.
Nhưng thực ra cây đàn này không phải của anh Dũng. Cây Đàn Tù bắt đầu “thụ án”
vào khoảng cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ trước. Chủ nhân đầu tiên
của nó đến nay chưa ai xác định rõ, vì nó được chuyền tay qua nhiều thế hệ tù
nhân suốt mấy chục năm trời.
Qua nhiều lần tâm sự với Trần Quốc Dũng, tôi biết thêm nhiều về cuộc đời thăng
trầm của Cây Đàn Tù.
Nó từng bị giam giữ cùng những tù nhân nổi
tiếng và bất khuất như:
Giáo sư Nguyễn Mạnh Bảo (án 20 năm);
Thượng toạ Thích Trí Siêu (tức Tiến sĩ Lê Mạnh Thát, tử hình sau được giảm xuống
20 năm);
Thượng Toạ Thích Thiện Minh (26 năm),
Thầy Thích Không Tánh (16 năm);
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế (20 năm);
Các Linh mục Trần Đình Thủ, Phạm Minh Trí,
Thầy Nguyễn Viết Huân (20 năm) và một số tu sĩ thuộc Dòng Đồng Công;
Sử gia Phạm Trần Anh (chung thân);
Người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu (37 năm);
Nhạc sĩ Vũ Thành An (tác giả của “10 bản không tên” nổi tiếng);
Giáo sư Nguyễn Đình Huy (chủ tịch đảng Tân Đại Việt)…
Sau này, Cây Đàn Tù còn làm bạn với nhiều thế hệ tù nhân lương tâm nổi tiếng
khác như
Ký giả Trương Minh Đức,
Ông Nguyễn Bắc Truyển,
Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình,
Ông Phạm Bá Hải,
Ông Phan Văn Thu (án chung thân),
Mục sư Dương Kim Khải,
Nguyễn Công Chính…
Anh Dũng khẳng định:
“Đa số tù nhân CT &TG ở trại tù Xuân Phước- Phú Yên trong suốt thập niên 80 và tù nhân trại tù Xuân Lộc – Đồng Nai từ năm 1990 đến nay (thời điểm 2008) cũng đều biết đến Cây Đàn Tù này”.
Trong suốt mấy mươi năm tù, cây đàn luôn gắn bó và chia sẻ đắng cay, ngọt bùi
cùng hàng trăm tù nhân CT & TG.
Cây Đàn Tù đã luôn hoà nhịp với những giọt nước mắt đau khổ của người ở lại tiễn
kẻ ra đi vĩnh viễn. Người ở hay đi, người sống sót hay chết gục đều là những phận
tù.
Cây guitar ấy từng chứng
kiến nhiều cuộc nổi dậy của những tù nhân can trường, lên tiếng đấu tranh đòi
quyền sống trong hoàn cảnh hà khắc và dã man trong nhà tù cộng sản. Nó từng
nghe tiếng súng nổ của cai ngục nhắm vào người tù. Nó ngân lên những âm thanh
réo rắt, ai oán trước mỗi mạng tù phải nằm xuống. Nó cũng đã nghe và chứng kiến
bao tiếng thở hấp hối và đôi mắt tuyệt vọng của những người bạn sắp từ giã cõi
đời vì đói khát, vì bệnh tật không có thuốc men điều trị. Thời tù của chúng tôi
nghiệt ngã đến mức cai tù có thể dễ dàng giết người chỉ bằng một tờ giấy A4 là
xong.
Theo quy định, tù nhân khi rời khỏi trại để ra hiện trường lao động hoặc ngược
lại đều phải đi theo hàng đôi dưới sự giám sát của quản giáo. Ai tự ý đi rời xa
đội ngũ có thể bị cai tù bắn chết không thương tiếc. Anh Dũng và nhiều tù hình
sự kể cho tôi nghe, có lần trên đường đi lao động, quản giáo nhờ tù nhân một việc
gì đó phải bỏ đội ngũ như đi hái rau, nhổ khoai… Không thể có chuyện từ chối lời
“nhờ vả”của
quản giáo nên tù nhân phải bỏ hàng ngũ để làm cho bằng được công việc được “nhờ”. Và
“đoàng, đoàng!!!”, tiếng súng nổ, người tù gục xuống. Không phải quản giáo bắn
mà là những tên cai tù khác (được gọi là cán bộ vũ trang) nhắm vào “kẻ trốn trại” để
bắn. Luật của nhà tù là thấy người tù nào rời hàng ngũ, hoặc có dấu hiệu vượt
ngục là phải tiêu diệt liền.
Phần 2: Đến bến bờ tự do
Ngày 17/3/2006 tại K3 -Xuân Lộc, chúng tôi cùng đứng lên đấu tranh nhằm phản đối chính sách hà khắc đối với tù nhân. Đồng thời yêu cầu BGT trại giam phải trả lời và chịu trách nhiệm về những cái chết oan uổng của người tù. Đa số chết vì bệnh tật không có thuốc men điều trị, vì nhiễm HIV trong tù. Chúng tôi đồng lòng lên án và cho đây là hành vi giết người có chủ đích. Trong những cuộc chiến như thế, Cây Đàn Tù lại trở thành vật trao đổi giữa cai ngục và tù nhân. Khi thế bất lợi nghiêng về nhà tù, cán bộ trại giam thường có những giải pháp nhằm xoa dịu tình hình. Họ chấp nhận đáp ứng một vài trong số các yêu sách mà tù nhân đưa ra. Cây Đàn Tù sẽ được “phóng thích”, về với tù nhân nếu nó đang bị “kỷ luật”. Tức là tù chính trị sẽ được chơi đàn, được ca hát nếu ngừng tuyệt thực, nếu thế này, thế kia. Tức là hai bên đều có phần nhượng bộ lẫn nhau.
Về sau “ông” này thay “ông” nọ lên làm Giám Thị, lại tiếp tục chơi trò bẩn, tìm đủ mọi lý do nhằm thu giữ cây đàn, để trừng trị người tù. Và cái chính, để có vốn liếng mặc cả trước mỗi cuộc đấu tranh của tù nhân. Trong suốt cuộc đời gần 40 năm, cây đàn ấy không biết bao nhiêu lần bị treo, bị “kỷ luật”.
Ngày 24/3/2006, một lần nữa cây đàn được xả kỷ luật. Anh Dũng xúc động, tay nâng niu cây đàn như là một báu vật đã tìm lại được. Tôi cũng rất vui vì lần đầu tiên được tận mắt thấy và tay sờ vào cây guitar huyền thoại này.
Năm 2008 anh Trần Quốc Dũng mãn án sau 18 năm. Anh giao cây đàn cho tôi “thừa kế” và căn dặn: “chừng nào em mãn án, hãy mang cây guitar này về luôn nhé, vì nó đã ở tù lâu quá rồi”.
Ngày 29/12/2013 tôi mãn án sau 14 năm bị giam cầm, cũng là ngày Cây Đàn Tù chính thức được tự do.
Ra tù, vai vác cây đàn, tay xách một giỏ đồ, tôi chuẩn bị cho hành trình mới, một hành trình của một kẻ sống vô gia cư với cái mác “thằng tù”, “tên phản động”.
Chưa biết về đâu mà gót chân của tôi đã mỏi. Tôi ghé một quán nước bên vệ đường nghỉ ngơi cùng Cây Đàn Tù cất lên khúc hát “Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa…” và “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”.
Nhưng không, ta cần phải đi tiếp đàn ơi, vì đất nước Việt Nam vẫn còn đắm chìm trong tăm tối, nạn mất nước đã cận kể rồi. Ta tiếp tục đi cho hết đoạn đường đời, cho thấy được Tự do.
Ra tù, tôi may mắn nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ của vợ chồng anh Trương Minh Đức, chị Bùi Thị Minh Hằng và nhiều anh chị em khác. Đặc biệt là sự cưu mang của các vị Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và vợ chồng anh chị Thịnh Phượng. Tôi có chỗ nương thân và tiếp tục theo đuổi lý tưởng tự do của mình. Cuộc sống, công việc cuốn tôi đi nên tôi cũng ít khi “đụng chạm” đến Cây Đàn Tù. Nó cũ quá rồi. Tôi nhận ra rằng, từ ngày được tự do, Cây Đàn Tù không còn thích hợp với những bản nhạc vui nhộn, tươi trẻ nữa. Nó hợp với những bản nhạc buồn, sâu lắng hơn. Cất lên những bản nhạc, bài hát mang tâm trạng, nó có hồn và truyền cảm hơn rất nhiều.
Nếu nhìn bằng mắt, nó là cây đàn không có giá trị gì nữa vì đã quá cũ kỹ. Nhưng với tôi, nó là kỷ vật vô giá. Có một vài người bạn ở Mỹ đã “gạ” tôi bán cây đàn này, cũng có người gợi ý nên bán đấu giá để có chút kinh phí trang trải cho cuộc sống quá khó khăn của tôi. Nhưng tôi từ chối. Tôi không thế bán một vật có giá trị về tinh thần đối với mình. Nhưng nếu để ở nhà tôi cũng lo. Nếu một ngày nào đó vợ chồng tôi bị sách nhiễu, hay bị bắt, người ta sẽ khám nhà, sẽ “tịch thu” Cây Đàn Tù thì uổng lắm. Người bạn tri kỷ ấy đã chia sẻ bao buồn vui và cả những đau thương không chỉ với tôi, mà với bao nhiêu đời tù khác nữa. Vì thế, tôi có ý định tặng lại nó cho một người bạn, người có thể cho nó tự do thực sự và nâng niu Cây Đàn Tù như một người bạn quý.
Cuối cùng tôi đã tìm được người xứng đáng. Đó là vợ chồng anh chị Bình, Hoà. Hiện tại hai người đang định cư tại nước Úc.
Hồi còn ở Việt Nam, anh Bình là nhạc công trong ban nhạc Yellow Bongo, một ban nhạc chuyên chơi nhạc quốc tế cùng với các ca sĩ Philippines, tại Seventeen Saloon, đường Tôn Đức Thắng – Saigon. Anh chính là người đã thành lập ra nhóm bè Cadillac (*) và kiêm phối bè cho nhóm này hát show hoặc thu CD cho ca sĩ cả Việt Nam lẫn hải ngoại.
Khi định cư ổn định bên nước Úc, anh tiếp tục theo đuổi niềm đam mê và sự nghiệp âm nhạc của mình.
Chị Dương Hòa là ca trưởng trong Ca đoàn nhà thờ và cũng là ca sĩ thính phòng ca đoàn Hoan Ca Melbourne đến nay được 27 năm.
Chị Dương Hoà đã khởi xướng chương trình “Xin đừng quên” nhằm khơi lại tình yêu quê hương đất nước, lòng tự tôn dân tộc Việt Nam đối với cộng đồng người Việt tại hải ngoại. “Xin đừng quên” cũng muốn nhắn nhủ đến mọi người hãy quan tâm và chia sẻ đến những TNLT gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ.
Vợ chồng anh chị luôn hỗ trợ cho các chương trình Thương Phế Binh của TTF (Tình Thương Foundation).
Vợ chồng nghệ sĩ Bình – Hoà với Cây Đàn Tù.
Đồng thời anh chị còn tham gia các buổi show diễn quan trọng của cộng đồng người Việt Nam tại Úc, nhân ngày kỷ niệm mất nước 30 năm, 35 năm, 40 năm. Một vài năm gần đây, anh chị thường tổ chức các buổi diễn yểm trợ cho cuộc đấu tranh đòi tự do, dân chủ trong quốc nội.
Tôi biết anh chị qua vợ tôi là Phạm Thanh Nghiên. Khi chúng tôi có bé Tôm, tình cảm giữa vợ chồng tôi và anh chị càng thêm khăng khít. Tuy chưa một lần gặp mặt, chỉ qua những dòng tin nhắn thăm hỏi động viên nhau qua đường truyền Internet, nhưng chúng tôi thấy hiểu và gần gũi nhau như người nhà. Chính vì thế, tôi và Nghiên quyết định sẽ trao Gây Đàn Tù cho anh chị và tin chắc, cặp nghệ sĩ này sẽ nâng niu kỷ vật ấy như chính chúng tôi đã nâng niu nó. Trước khi chuyển cây đàn sang Úc, vợ chồng tôi có mời một vài người tranh đấu ký tên lên Cây Đàn Tù. Duy nhất Phạm Đoan Trang là …chưa tù. Còn lại Thượng Tọa Thích Thiện Minh, ông Nguyễn Hữu Cầu, nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình và vợ chồng tôi, cả thày 5 người cộng lại là vừa tròn 87 năm tù.
Vợ chồng tôi cùng con gái 6 tháng rưỡi chụp hình cùng Cây Đàn Tù trước khi gửi kỷ vât này sang Úc.
Qua bao giờ phút hồi hộp, lo lắng, cuối cùng Cây Đàn Tù đã đến nước Úc, nơi nó sẽ được tự do thực sự. Cầm đàn trên tay, anh Bình, chị Hòa rất cảm động. Chị Hòa nói với vợ chồng tôi: “Tay mình run lẩy bẩy, không thể tưởng tượng nổi mình lại được chạm vào nó”. Bạn thân của chị Hòa là ca sĩ Phương Thảo nói với Nghiên “Cây đàn này lạ lắm, nó có linh hồn. Mình ôm đàn, cảm nhận rõ hơi ấm của nó,”.
Không còn nỗi lo mất đàn, mất kỷ vật quý giá của một thời tù đày đau thương. Chúng tôi thấy trong lòng nhẹ nhàng, thanh thản. Nhưng, tự trong đáy lòng, tôi vẫn muốn được thêm 1 lần ôm nó trong lòng và cùng nhau nghêu ngao. Hẹn một ngày không xa chúng ta sẽ đoàn viên, cùng nhau cất lên tiếng hát tự do và thanh bình.
Chú thích:(*) Nhóm Cadillac: Nhóm hát bè chuyên nghiệp đầu tiên được thành lập tại Việt Nam.
Sài Gòn ngày 15 Tháng Tám năm 2018
No comments:
Post a Comment