Một con người bị đày đọa gần hết cả cuộc đời lại có thể nói lời thứ tha nhẹ nhàng như sương khói, nhất định phải là bậc phi thường, đã đạt đến ánh sáng của sự giải thoát.
Trong lịch sử tranh đấu
đòi tự do cho dân tộc thời hậu chiến, hiếm có ai mang cuộc đời bi tráng như
Trương Văn Sương, người đã trải qua gần 34 năm lưu đày trong các nhà tù cộng sản.
Không lừng danh như những Trần Văn Bá, Hoàng Cơ Minh, Lê Quốc Túy hay Mai Văn Hạnh,
nhưng tên tuổi Trương Văn Sương đã trở thành biểu tượng của lòng trung thành sắt
đá với lý tưởng tự do, của sự kiên định thầm lặng – thứ thầm lặng uy dũng và
lay động tâm can.
Trương Văn Sương sinh năm
1943, quê Sóc Trăng, từng là trung úy Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông bị đưa đi
lưu đày vào đúng ngày Sài Gòn thất thủ, 30/4/1975 suốt 6 năm trong các “trại cải
tạo” ở miền Nam. Năm 1981, sau khi được thả, ông vượt biên sang Thái Lan và gia
nhập “Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam” do Lê Quốc
Túy, Trần Văn Bá lãnh đạo, với khát vọng xây dựng một phong trào cứu quốc tại
quê nhà.
Năm 1983, trong một chuyến
về nước làm nhiệm vụ, nhóm của ông bị bắt tại Hòn Đá Bạc, Mũi Cà Mau. Hàng trăm
người trong tổ chức yêu nước Trần Văn Bá lần lượt bị bắt, ghi dấu một giai đoạn
đen tối kéo dài hàng thập niên cho con đường cứu quốc của dân Việt. Tháng
12/1984, tòa án cộng sản tại Sài Gòn đưa 21 người trong “Mặt trận Thống nhất”
ra xét xử công khai. Các ông Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Quân, Huỳnh
Vĩnh Sanh và Hồ Thái Bạch bị tuyên án tử hình, nhiều người khác lãnh án chung
thân hoặc từ 8 đến 12 năm tù.
Dù không nằm trong danh
sách xét xử công khai, Trương Văn Sương vẫn bị kết án tù chung thân với cáo buộc
làm “gián điệp”. Bản án ấy mở đầu một hành trình sinh tử 27 năm với những đau
thương ngoài sức tưởng tượng của con người. Tính cả 6 năm cải tạo sau 1975, ông
đã ở tù gần 34 năm, minh chứng cho sức chịu đựng phi thường và ý chí kiên định
của một bậc chính nhân quân tử.
Ba mươi tư năm bị giam cầm,
“người tù thế kỷ” Trương Văn Sương đã lê xiềng qua những nhà tù khắc nghiệt nhất
trên dải đất hình chữ S: từ Z30A Xuân Lộc ở Đồng Nai, đến trại Z30D Hàm Tân giữa
miền Trung nắng cháy, rồi ra tận miền Bắc xa biền biệt với nhà tù Ba Sao khét
tiếng bạo tàn.
Suốt hơn ba thập niên, dù
thay bao đời giám thị, bao thế hệ cai tù, tất cả đều bất lực trước người tù hiền
hòa ấy. Chỉ cần ông mềm lòng ký đơn xin khoan hồng, ông đã thoát khỏi địa ngục
trần gian nhiều năm trước. Nhưng ông khước từ, để bảo vệ chính nghĩa, để gìn giữ
phẩm giá và cốt cách của một chiến sĩ tự do.
Sự khước từ đầy kiêu hãnh
của Trương Văn Sương đã làm sụp đổ ảo tưởng quyền lực của những kẻ chiến thắng
- những kẻ vẫn nghĩ rằng sau khi cướp được một nửa đất nước, đương nhiên sẽ khuất
phục được tất cả những người thua cuộc.
Số phận đau thương của
ông luôn ẩn chứa những khúc quanh lạ thường. Việc ông ký giấy tạm hoãn thi hành
án sau 27 năm giam cầm (có lẽ) cũng là điều bất ngờ với giới cai tù: “Vì tôi
nghĩ rằng nếu không làm thì tôi sẽ bỏ xác tại đây. Buộc lòng tôi phải làm đơn để
ra ngoài. Rồi sau này thì lịch sử, xã hội, anh em, mọi người sẽ chứng minh cho
lòng thành của tôi.”
Và đó là cơ hội hiếm hoi
để công luận - qua cuộc đời bi thảm của ông - hiểu được những thân phận tù đày
khốc liệt của hàng ngàn con người khác. Trương Văn Sương sẵn sàng chết, nhưng
phải là một cái chết ý nghĩa, một cái chết đi vào lịch sử.
Trong một cuộc trả lời phỏng
vấn đài RFA khi mới được tạm tha, tháng 7/2010, ông bộc bạch: “Tôi không ngờ
tôi chịu đựng nổi đến mức này, nó vượt ra ngoài ý tưởng của tôi.” Một năm tạm
tha ấy như một nhiệm màu, không chỉ cho ông mà cho cả lịch sử đau thương của
dân tộc. Nếu không có một năm quý giá ấy, ít ai biết được những trải nghiệm kinh
khiếp ông đã đi qua. Và hơn hết, người ta cũng sẽ chẳng thể nào thấy được một
Trương Văn Sương vững vàng như núi, nhưng lại hiền hòa, cao thượng và nhân ái đến
lạ thường.
Các bạn tù kể rằng mỗi
năm, ông bị cùm chân trong buồng biệt giam hai lần, “can tội” không chịu viết bản
kiểm điểm theo định hướng. Ngoài ra, còn có những đợt cùm “phát sinh”, tùy theo
mức độ ông “chống đối” cai tù.
Không những thế, ông còn
biến mỗi bản kiểm điểm thành một bản cáo trạng, tố cáo tội ác của nhà cầm quyền:
từ cải cách ruộng đất, thảm sát Mậu Thân, đến những vụ bắt bớ, giết chóc sau
Tháng Tư năm 1975; tội nhượng đất, nhượng biển cho Tàu cộng; tội tham nhũng và
chà đạp quyền sống của dân Việt… Đấy là chưa kể những trận cùm phát sinh, tùy
thuộc vào số lần ông chống lại sự áp bức, ngược đãi của giới cai tù.
Hầu hết bạn tù đều dành cho ông sự thương yêu và quý trọng đặc biệt. Ông kiên cường, bất khuất trước bạo quyền bao nhiêu thì lại nhân ái, nhường nhịn bạn tù bấy nhiêu.
Ngày trở về, ông mang
theo khát khao được gặp lại người vợ đã dành cả đời mòn mỏi đợi trông. Nhưng
khi vừa đặt chân vào ngôi nhà rách nát, điều đầu tiên ông nhìn thấy không phải
nụ cười mừng đón của bà, mà là tấm di ảnh lạnh lẽo được đặt trên bàn thờ. Nỗi
đau quá lớn khiến ông quỵ ngã, và như ông miêu tả, là “trái tim tôi muốn
văng ra ngoài.”
Một năm tự do ngắn ngủi
chẳng thể nào làm dịu đi những bệnh tật, đau đớn tích tụ suốt 34 năm tù ròng
rã. Ngày 19/8/2011, Trương Văn Sương bị áp giải trở lại nhà tù Ba Sao (Nam Hà),
trên một chiếc xe bít bùng kín mít, cách nhà ông ở Sóc Trăng gần hai ngàn cây số,
trong tình trạng ông vừa trải qua một cơn đột quỵ.
Hai mươi tư ngày sau khi
trở lại Trại giam Ba Sao, chiến sĩ tự do Trương Văn Sương trút hơi thở cuối
cùng, kết thúc hành trình tù đày một phần ba thế kỷ.
Món quà “nhân đạo” mà Hà
Nội trao cho ông trong những ngày cuối đời chỉ là màn phô diễn quyền lực, đồng
thời phơi bày sự bất lực của chế độ trước một người tù già đơn độc.
Trương Văn Sương đã ra
đi, mang theo cả một giai đoạn lịch sử đầy thương tích. Nhưng di sản ông để lại
chính là tình yêu thương và lòng nhân ái, thứ sức mạnh thầm lặng mà không một
nhà tù nào, không một chế độ tàn bạo nào giam cầm nổi.
“Tôi muốn hướng về
tương lai, nghĩa là muốn con người đối xử với nhau cho có lòng nhân đạo. Dân tộc
Việt Nam phải biết thương dân tộc Việt Nam. Còn quá khứ, cứ để cho nó về quá khứ.”
Một con người bị đày đọa
gần hết cả cuộc đời lại có thể nói lời thứ tha nhẹ nhàng như sương khói, nhất định
phải là bậc phi thường, đã đạt đến ánh sáng của sự giải thoát.
Tháng 11/2025.



No comments:
Post a Comment