Hòa thượng Thích Quảng Độ được thỉnh giảng về Phật học, ở Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X tại Đà Lạt, khóa 1971-1972 (Hình: DCCT)
Sự kiện sư Thích Minh Tuệ
trong xã hội Việt Nam, ngoài việc khơi gợi lại một niềm tin Phật giáo trong
lành và nguyên sơ, không bị vẩn đục bởi chính trị, bên cạnh đó còn dấy lên một
làn sóng nhận định chia sẻ ấm áp từ các tôn giáo khác. Thậm chí với các linh mục
trong và ngoài nước, cũng đã có nhiều bài giảng và bình luận đồng cảm, khiến
nhiều người từng sống ở miền Nam trước 1975, nhớ tới một thời tự do tôn giáo,
chan hòa giữa các đạo.
Hiện trạng đời sống tín
ngưỡng Việt Nam đầy những điều đen tối, ngay cả chuyện sư Thích Minh Đạo ở tỉnh
Bà Rịa- Vũng Tàu mở lời thán phục phép tu của sư Thích Minh Tuệ, cũng phải bị
“sám hối” khiến ai nấy đều kinh sợ những điều nằm sau bức màn tôn giáo màu mè của
chế độ CSVN. Nhiều nơi đã gọi điện, tìm đến thăm như một sự ủng hộ tinh thần
cho những điều đẹp đẽ đang bị ép dần đến phải mai một. Phía Công giáo, cũng có
linh mục Anton Maria Vũ Quốc Thịnh (Dòng Chúa Cứu Thế) gọi điện hỏi thăm, bày tỏ
sự mến phục, đồng cảm với nhà sư Thích Minh Đạo. Từ sự kiện đó, không ít người
đặt câu hỏi, có hay không sự thù nghịch, chia rẽ, kỳ thị giữa hai tôn giáo lớn
là Phật giáo và Công giáo ở Việt Nam, vốn được dựng lên từ ngôn từ thù hằn và định
kiến của sư tuyên truyền cộng sản hiện nay?
Với tôi, nghĩa cử của cha
Thịnh đối với thầy Minh Đạo nhắc nhớ đến những cuộc hội ngộ vô cùng cảm động giữa
các linh mục, các nhà sư trong nhà tù cộng sản, sau Tháng Tư năm 1975. Những ký
ức được Hòa thượng Thích Thiện Minh ghi chép lại trong cuốn sách Hai Mươi Sáu
Năm Lưu Đày, hoặc thi thoảng vẫn kể cho tôi nghe mỗi dịp đến thăm thầy ở Sài
Gòn.
Năm 1984, thầy Thích Thiện
Minh bị chuyển đến nhà tù Xuân Phước (Phú Yên) và ở chung dãy cùm biệt giam với
cha Nguyễn Luân (Phan Rang), cha Nguyễn Văn Vàng (DCCT), cha Nguyễn Quang Minh
(Nhà thờ Vinh Sơn) và một số vị chức sắc tôn giáo khác. Trong số bốn vị kể
trên, Thầy Thích Thiện Minh trẻ nhất, ở tù lâu nhất và cũng là người duy nhất sống
sót trở về sau hai mươi sáu năm lưu đày. Cha Vàng, cha Luân, cha Minh đều chết,
và chết rất thê thảm, đau đớn trong buồng biệt giam.
Thầy Thích Thiện Minh và cuốn hồi ký “Hai mươi sáu năm lưu đày”.
Khu biệt giam luôn là nơi « ưu tiên » dành cho tù nhân chính trị và tôn giáo thuộc hàng “cứng đầu” nên các cha, các thầy gần như đóng đô ở đây. Thỉnh thoảng mới có một tù nhân hình sự bị kỷ luật, được “gửi” vào trong thời gian cùm chân, thường là 7 ngày. Thầy Minh kể, các cha, các thầy ai cũng ghẻ lở, hôi hám, rách rưới, đói khát và bệnh tật. Thứ gọi là quần áo mặc trên người che được chỗ nọ thì hở chỗ kia. Thế nên cái quần hôi thối dính đầy chất thải của anh chàng tù thường phạm, là niềm mơ ước của các cha, các thầy. Ai cũng giữ lòng tự trọng, và nhường nhau nên không ai mở lời xin xỏ. Đến ngày xả cùm, anh chàng thường phạm ném cái quần hôi thối đến vị trí của ai, người đấy trở thành chủ nhân mới của nó. Cái quần đùi dơ bẩn, nhưng ít ra cũng giữ lại được chút tư cách của một con người, thế là quý lắm rồi.
Mỗi ngày, các cha, các thầy
đều cầu nguyện theo nghi thức riêng của tôn giáo mình. Nhà sư cầu nguyện cho
linh mục. Linh mục cầu nguyện cho nhà sư. Nhưng chẳng ai cầu nguyện được liên tục
từ sáng tới khuya. Cái cùm chân khiến mỗi ngày tù như dài thêm ra. Bữa nọ, cha
Nguyễn Quang Minh đề nghị, mỗi người sẽ xướng một vài câu thơ để giết thời
gian, và để kỷ niệm những ngày tháng đọa đày bên nhau trong buồng xà lim.
Cha Nguyễn Quang Minh khởi
xướng :
“Vô tình hạnh ngộ gặp nhau đây
Giữa khoảng nhà lao chốn ngục đầy
Cám cảnh thâm tình nên tri kỷ
Cùng nhau chia sẻ nỗi đau này”.
Thầy Thích Thiện Minh họa tiếp :
“Đau này không phải chỉ riêng ta
Mà của toàn dân khắp mọi nhà
Thông cảm sẻ chia người mỗi chút
Đồng cam cộng khổ mối chan hòa…”
Tới phiên cha Nguyễn Văn Vàng :
“Chan hòa nước mắt của muôn dân
Đời bị rã tan, Đạo xóa dần
Tu sĩ lên đường tìm đại nghĩa
Quyết mong diệt sạch lũ vô thần”
Cuối cùng là cha Nguyễn Luân :
“Vô thần diệt sạch khó gì đâu
Đoàn kết liên tôn cứu họa sầu
Đập rắn, đập mình không thể chết
Mà ta phải đập cả luôn đầu!”
Người bị biệt giam lâu nhất
là cha Nguyễn Luân, đến nỗi ngài được gọi là “Ủy viên thường trực phòng kỷ luật
vô hạn định”. Một hôm, viên giám thị gọi ngài lên, yêu cầu viết dòng chữ “Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, độc lập – tự do – hạnh phúc” như là điều kiện để
cho ngài ra khỏi buồng kỷ luật. Đọc dòng chữ cha Luân viết, mặt hắn tím đen vì
tức giận: Dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không độc lập, không tự
do, không hạnh phúc” khiến hắn ngay lập tức đưa ngài về lại buồng giam kỷ luật
cho đến khi qua đời.
Cha Luân bị bệnh phổi rất
nặng. Cái ý chí cương cường, không chịu khuất phục đẩy ngài đến cái chết nhanh
hơn. Trước khi qua đời, cha Luân vẫn kịp làm một bài thơ tặng thầy Minh :
“Trước kia không biết thầy Minh
Đến đây không hẹn mà mình gặp nhau
Chúa Trời, Đức Phật trên cao
Còn ta trong ngục kết giao nghĩa tình.
Thề nguyền một dạ tử sinh
Lo cho Dân tộc, thanh bình Quốc gia
Tinh thần tôn giáo hài hòa
Một trời, một đất xem là của chung.
Bởi vì chân lý tột cùng
Mình tìm chân lý đi chung một đường
Mấy lời nhắn nhủ yêu thương
Tặng thầy Minh nhớ tận tường ý Luân.”
Vì bị xếp vào thành phần
“đặc biệt nguy hiểm cho chế độ” nên các cha, các thầy thường xuyên bị chuyển trại
tù. Điển hình là thầy Thích Tuệ Sỹ, ngài lê xiềng từ nhà tù trong Nam ra đến
ngoài Bắc. Năm 1987, thầy Thích Thiện Minh được chuyển từ nhà tù Xuân Phước đến
nhà tù Xuân Lộc, rồi gặp các thầy Thích Tuệ Sỹ, Thích Đức Nhuận, Thích Trí Siêu
(giáo sư Lê Mạnh Thát), Thích Không Tánh, các cha Trần Đình Thủ, Phạm Minh Trí,
thầy Nguyễn Viết Huân (sau này là cha Phụng) và nhiều tù nhân chính trị, tôn
giáo ở đó.
Thầy Minh kể, nếu không
có những viên kẹo, những gói đường nhỏ xíu mà cha Trần Đình Thủ bí mật ném vào
buồng cùm trong những ngày biệt giam khi mới lên trại, thầy đã không qua khỏi.
Cha Trần Đình Thủ, người sáng lập Dòng Đồng Công (Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc), tuy
không bị cùm chân kỷ luật nhưng ở khu biệt giam như một hình thức cách ly với
các tù nhân khác. Ngài ở đó nhiều năm cho đến ngày ra tù. Nhờ sự “tự do đi lại”
của cha Thủ mà nhiều anh em bạn tù được cứu sống. Mỗi ngày, ngài đều đi bộ thể
dục, trong người giấu sẵn viên thuốc, viên kẹo, hoặc miếng thịt, mẩu bánh rồi đợi
lúc cai tù không để ý, là ngài tuồn vào cho bạn tù.
Có một câu chuyện rất thú
vị giữa cha Trần Đình Thủ và các nhà sư Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (giáo sư
Lê Mạnh Thát), Thích Đức Nhuận và Thích Thiện Minh. Lễ Phật Đản năm ấy, các thầy
làm cơm chay mời anh em toàn trại. Riêng khu biệt giam phải chờ cuối tuần
mở cửa, các thầy mới tới thăm cha Thủ được. Vừa thấy bốn vị sư mặc áo tù lững
thững đi vào, cha Thủ giả vờ giận dỗi:
-Tưởng là các thầy quên
già này rồi.
Cả bốn nhà sư đồng thanh:
-Chúng con chào bố. Chúng
con đến thăm bố đây.
Cha Thủ đã ngoài tám mươi
tuổi, nên các thầy đều gọi ngài là cha, hoặc gọi thân mật là “bố”.
-Tôi nghe nói các thầy tổ
chức mừng lễ Phật Đản, phát cơm chay cho toàn trại. Lễ Phật Đản là ngày trọng đại,
là ngày vui, lẽ nào tôi lại bị gạt ra ngoài.
Thầy Thích Thích Đức Nhuận
thưa:
-Nhà bố đóng cửa im ỉm,
chúng con có vào được đâu.
Cha Thủ nhìn thầy Thích
Tuệ Sỹ, người mà từ khi bước vào vẫn chắp tay sau lưng, trông rất… khả nghi:
-Thầy có quà cho tôi
không? Người đấu tranh là phải công bằng đấy nhé.
Thầy Tuệ Sỹ nhoẻn miệng
cười, giơ gói quà ra trước mặt:
-Đây, quà của bố đây. Làm
sao chúng con quên bố được.
-Đấy, đấu tranh là phải
công bằng như thế mới được.
Rồi cả năm người tù cùng
cười, chẳng còn ranh giới giữa “đạo tôi- đạo anh”.
Giáng sinh năm 1992, thầy
Thích Thiện Minh làm bài thơ tặng cha Trần Đình Thủ, như sau:
“Ngày lễ No-en Chúa giáng sinh
Nơi nơi mừng đón phút thanh bình
Nhiều người tôi Chúa còn lao lý
Lắm kẻ chăn chiên chốn ngục hình
Tâm niệm trầm tư hồi quán tưởng
Tỏ lòng cung kính nguyện cầu kinh
Thánh ngôn lời ngọc còn răn dạy
Kính Chúa yêu người trọn đức tin.”
Linh mục Trần Đình Thủ (1906 – 2007)
Câu chuyện về sư Thích
Minh Tuệ hôm nay, hay về các Tu Sĩ, kiêm Tù Sĩ của ngày hôm qua chắc chắn sẽ được
ghi chép trong lịch sử như một phần thân phận nổi trôi của đất nước này. Để thấy
rằng, giữa các tôn giáo, dù khác nhau về Đức tin, về giáo lý, tín điều nhưng
các cha, các thầy đã tương kính, đã coi nhau như anh em giữa bóng tối của tù ngục,
trong giai đoạn đau thương nhất của dân tộc. Thế lực vô thần, phản dân hại nước
luôn gây chia rẽ, kỳ thị và hận thù giữa các tôn giáo với nhau nhằm đạt được những
mưu đồ chính trị đen tối. Đức Chúa và Đức Phật đã gặp nhau trong chốn ngục
hình, lẽ nào con cái của các Ngài, lại không mở lòng mở trí, đón nhau vào ánh
sáng của Đức tin, của lòng từ ái, của khát vọng hòa bình và tình huynh đệ?
No comments:
Post a Comment