Đình
Đại
...Hình ảnh của một người chị nhỏ
thó mảnh mai nhưng rắn chắc không thua gì sắt thép trước bao nghiệt ngã và
thách đố của cường quyền. Hình ảnh người Mẹ già với đôi mắt đầy nhân ái bên
người con gan dạ kiên cường. Đôi mắt ấy, tình yêu ấy tôi cũng từng được Mẹ tôi
ban phát cho tôi, và tôi biết ánh mắt ấy và tình yêu ấy sẽ là nguồn lực vô biên
cho những đứa con bơ vơ vững bước trước bão đời và bạo quyền. Hình ảnh của một
người chị khác khóc Mẹ sau bao sóng gió để được trở về trên chính quê hương của
mình mà chịu tang Mẹ. Những sự trùng hợp gần như được sắp đặt ấy, theo dòng
thời gian, theo dòng cảm xúc mà tôi đã viết thành bài Ca Tù 2 "Lạy Mẹ con
đi"...
Lạy Mẹ con đi về chốn bể dâu
lạy Mẹ con đi vì không muốn sống
cuối đầu
lạy Mẹ con đi dù tuổi xuân tàn úa
Dù cùm sắt với Xà-lim con cũng không
sờn lòng
Lời Mẹ ru con yêu nước yêu non
Lời Mẹ ru con con nguyện mãi khắc
ghi lòng
Dù ngục tù tối tăm lòng con vẫn
sáng
Vẫn rực sáng với tình yêu Mẹ cho con
vào đời
Mẹ dạy cho con thương giống thương
nòi
thương nương khoai sông ngòi
thương ruộng lúa
thương xóm làng
Mẹ dạy cho con thương từng tấc
đất
của non sông nơi cha anh đã nằm
xuống ngàn đời
Từ Nam Quan về đến Cà Mau
Từ Cao nguyên vượt sóng ra biển Đông
con vẫn nhớ con mãi nhớ máu cha anh
đã chảy thành dòng
Lạy Mẹ con đi vào chốn tù lao
Lạy Mẹ con đi đạo hiếu con không
vuông tròn
Mẹ cười chứa chan tình bao la non
nước
Mẹ dạy con bất khuất như cha ông ta
bao đời
ru hời ru hỡi hời ru
Trong một dịp tham gia văn nghệ gây
quỹ giúp dân oan, chị Thu Sương có nói nhỏ với tôi "Đại xem chừng nào
có hứng thì viết một bài cho tù nhân lương tâm", khi ấy tôi chỉ nghe
thoáng qua và trả lời chị bằng cái gật đầu và tiếng dạ. Lúc đó tôi cứ ngỡ là
chị nói tôi viết một bài tản văn về tù nhân lương tâm. Vì trong thâm tâm, tôi
chỉ thấy tôi có chút năng khiếu viết tản văn chứ về nhạc tôi chưa hề cảm thấy
mình là nhạc sĩ. Tôi chỉ mê nhạc từ tấm bé. Niềm đam mê ấy tôi được thừa hưởng
từ chính Mẹ tôi. Bà hát rất hay và luôn khuyến khích các anh em tôi chơi một
nhạc cụ nào đó. Nhưng chúng tôi lại không có một ai trở thành nhạc công hay
nhạc sĩ chuyên nghiệp, ngoại trừ một người anh chơi đàn cho các phòng trà và
quán ăn ở Paris. Tôi tập tành làm nhạc từ hồi mới lớn bằng cách viết lời hát và
nhớ giai điệu ở trong đầu.
Giọng hát của Hạt Sương Khuya
Tôi vốn là một đứa thất học theo
đúng nghĩa đen của nó, nghĩa là chẳng được học đàng hoàng cho đến khi tôi sang
Pháp. Tôi chỉ biết mái trường xhcn đến lớp 2 thì phải. Ngoài ra tôi chỉ ở nhà
mà ngấu nghiến tủ sách của Ba tôi. Sang đến Pháp, tôi cứ sợ sẽ bị quên tiếng
Việt cho nên tôi lại tiếp tục ngấu nghiến đọc tiếng Việt với những sách của nxb
Xuân Thu và Lá Bối. Tôi tập làm thơ rồi viết văn và tự xem đó là cách để không
quên tiếng Việt. Về nhạc thì tôi học lỏm của những người bạn thân, tụi nó giờ
đã trở thành những nhạc sĩ tài ba trong làng nhạc thính phòng. Đó chính là
những người bạn mà cũng là những người thầy của tôi.
Trong những năm tôi làm quen với
cộng đồng người Việt ở Paris, tôi có dịp biết đến Tổng Hội Sinh Viên qua một
người em kết nghĩa, một người em luôn mang tâm tư và nguyện vọng cống hiến cho
đất nước. Hiện nay cũng rất quan tâm và hoạt động cho phong trào dân chủ, nhất
là dân oan. Khoảng thời gian đó tôi có dịp gặp nhiều anh chị rất có lòng với
đất nước và hầu như đều không chấp nhận chế độ cộng sản, nhất là nỗi đau và nỗi
ám ảnh của ngày 30 tháng tư 1975 còn rất mới và rất sâu đậm trong lòng họ. Khi
ấy, lần đầu tiên tôi biết đến một nhà bất đồng chính kiến và cũng là một tù
nhân lương tâm (theo định nghĩa của tôi) đó là Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, với tấm
lòng thiết tha, ông nguyện làm chất xúc tác để ngọn lửa đấu tranh của người
Việt hải ngoại có thể bùng lên vì tương lai đất nước. Và đó cũng là giai đoạn
tôi biết đến tập thơ của thi sĩ và chí sĩ Hoàng Phong Linh. Khi ấy tôi mới
hơn 20 tuổi. Tôi đọc và yêu thơ ông cũng như cảm phục những tấm gương và những
tấm lòng đầy dũng khí phương đông, như anh Trần Văn Bá, một người anh tôi chưa
từng gặp, nhưng tôi từng có cơ duyên dựng bàn thờ cho anh và thắp cho anh nén
nhang những đêm thức trắng làm báo Nhân Bản cùng với Đức Tùng. Khi ấy tôi làm
nhạc cho mình và hát cho một mình mình nghe. Thỉnh thoảng cũng có chia sẻ với
vài anh em cật ruột trong những lúc trà dư tửu hậu. Lúc đó tôi làm bài Chinh
Phu Hành Khúc, vì lời thơ bi tráng và vì ảnh hưởng sâu đậm của Trường ca Hòn
Vọng Phu. Tôi cũng làm nhạc cho bài thơ Ta về của nhà thơ Tô Thùy Yên để nhớ
đến một người bạn thuở thiếu thời đã viết cho tôi bài thơ ấy trong một trang
giấy úa nhàu, sau một khoảng thời gian ba chìm bảy nổi của chuyến vượt biên đến
Hồng Kong rồi bị thanh lọc trở về. Những bài hát ấy khi buồn tôi lại hát cho
tôi.
Mãi đến sau này trong một lần tình
cờ tôi gặp chị Thu Sương qua bữa tiệc trà tại tư dinh anh Quốc Nam, khi ấy tôi
có hát một bài tôi cảm tác sau khi xem phóng sự Hoàng Sa về các ngư dân ở đảo
Lý sơn của một trí thức gốc pháp thiên tả Andre Mendras. Và đó là lần đầu tiên
chị Thu Sương nghe nhạc tôi làm. Sau này chị có nói là khi ấy tuy loay hoay phụ
giúp chị Quốc Nam trong bếp nhưng chị đã thích giai điệu và ca từ của bài hát
đó. Rồi một lần khác có dịp nói chuyện với nhau, chị mới bảo với tôi rằng: em
có bài nào khác không thì cho chị nghe với. Và từ đó chị thường nghe và khuyến
khích tôi viết Hùng Ca. Và thế là từ bài Chinh Phu Hành Khúc, lại có thêm Chinh
Phụ Hoài Ngâm và lần lượt các bản Hùng Ca được ra đời. Có lẽ chị chính là cơ
duyên để những suy tư, những cảm xúc tôi đã có sẵn trong lòng tôi được dịp biến
thành lời ca và ý nhạc. Những bài Hùng Ca cũng bắt nguồn từ sự kiện Đinh Nguyên
Kha và Nguyễn Phương Uyên bị bắt. Khi ấy, hình ảnh hai người em đứng trước tòa
đã khiến cho không chỉ một mình tôi mà có lẽ tất cả những bạn bè thân quen quan
tâm đến đất nước đều náo nức, sôi sục một niềm tin, một ngọn lửa niềm tin sẽ
không bao giờ tắt. Khi ấy tôi đi làm về, ngồi trong xe mà thấy lòng háo hức,
như có một động lực vô hình nào đó thúc đẩy tôi viết một bài thơ cho Uyên Kha,
và tôi gọi điện cho anh Phạm Thành đọc cho anh nghe mà say sưa như là kẻ lên
đồng. Phải nói rằng sự kiện ấy đã làm tôi nức lòng, đã "giải phóng"
cho tôi khỏi nỗi sợ vô hình. Chính ngọn lửa niềm tin đó đã cho tôi nhiệt huyết
để làm nên bài Hùng Ca Sử Việt 1 khi dàn khoan Hải Dương của TQ xâm phạm lãnh
hải Việt Nam. Trở về với những bài ca tù, thì có lẽ từ rất lâu tôi đã có cơ
duyên gặp những người tù của chế độ cộng sản, như BS Nguyễn Đan Quế, anh Phạm
Thành, anh Sơn, anh Dũng, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, ông Nguyễn Quốc Quân, và cả
những người bị lưu đày dưới hình thức bị cấm về nước như chú Vũ Thư Hiên, chú
Bùi Tín và sau này có thêm Người Buôn Gió và tất nhiên là còn vô số các chú bác
từng trải qua lao tù dưới tên gọi trá hình là Trại cải tạo. Bản thân tôi cũng
đã trải qua dăm ba ngày bị giam vì tội vượt biên. Một loại tù vô lý và vô duyên
nhất dành cho những con người vô tội, chỉ ước ao có một cuộc sống, một tương
lai yên bình, hạnh phúc. Có lẽ nhà tù hay hình thức tù đày đều mang dấu ấn sâu
đậm trong tiềm thức của tôi. Và rồi từ khi có facebook tôi lại có cơ duyên biết
đến nhiều anh chị em đồng trang lứa với tôi đã dám đương đầu với cả một guồng
máy công an mà một thời ai nghe qua cũng sẽ mất ăn mất ngủ. Chế độ khủng bố
khiến cho mỗi tế bào của tôi đều nhuốm màu sợ hãi. Phải sống ở nước ngoài hàng
chục năm trời tôi mới thôi sợ hãi. Nhờ facbook, nhờ các trang blog, nhờ vào
những tranh đấu không ngừng nghỉ của các anh các chị trong nước, cũng như của
bao anh chị ở hải ngoại mà tôi từng được biết mà dần dần tôi mới gột bỏ được
vết hèn hằn trong tâm thức của tôi. Tôi hết hèn khi tôi hiểu được giá trị của
tôi, khi tôi biết trong cuộc sống, chỉ có trách nhiệm và bổn phận, chứ không có
người trấn áp người, không có thánh nhân, không có lãnh tụ và không có nốt
những minh quân, minh chúa. Chỉ có những con người tự do cống hiến khối óc và
sức lực của mình cho quê hương, và cho nhân loại. Những hình ảnh của Nguyễn
Hoàng Vi bị đánh, bị làm nhục nhưng vẫn không hề sợ.
Hình ảnh của một người chị nhỏ thó
mảnh mai nhưng rắn chắc không thua gì sắt thép trước bao nghiệt ngã và thách đố
của cường quyền. Hình ảnh người Mẹ già với đôi mắt đầy nhân ái bên người con
gan dạ kiên cường. Đôi mắt ấy, tình yêu ấy tôi cũng từng được Mẹ tôi ban phát
cho tôi, và tôi biết ánh mắt ấy và tình yêu ấy sẽ là nguồn lực vô biên cho
những đứa con bơ vơ vững bước trước bão đời và bạo quyền. Hình ảnh của một
người chị khác khóc Mẹ sau bao sóng gió để được trở về trên chính quê hương của
mình mà chịu tang Mẹ. Những sự trùng hợp gần như được sắp đặt ấy, theo dòng
thời gian, theo dòng cảm xúc mà tôi đã viết thành bài Ca Tù 2 "Lạy Mẹ con
đi". Bài hát ấy tôi viết theo ý của chị Thu Sương dành cho chị Phạm Thanh
Nghiên như một món quà tinh thần. Tôi viết xong bài hát ấy cũng chính là lúc
tình cờ tôi biết được chị Ca Dao vừa về chịu tang Mẹ. Tôi thật sự xúc động với
bức ảnh chị về chịu tang Mẹ. Trong ánh mắt của chị tôi nhìn thấy tôi khi đau
đớn, và hụt hững vô bờ với nỗi đau mất Mẹ. Khi về gặp lại chị, ngồi nghe chị kể
những gian nan, cay nghiệt chị đã phải đương đầu, tôi chợt thấy có sự trùng
khớp, một sự lặp lại của nỗi đau, của nỗi uất hận về một guồng máy, một chế độ
đối xử với người yêu quê hương như những kẻ thù. Và tôi đã hát bài "Lạy
Mẹ" tặng chị Ca Dao. Tôi chia sẻ niềm đau ấy với chị Thanh Nghiên, với chị
Ca Dao bằng một nỗi đau của một đứa con cũng vừa mất Mẹ. Tôi biết nỗi đau ấy nó
lớn vô cùng. Tôi biết nỗi cô đơn ấy nó lớn vô cùng. Và tôi biết nỗi đau ấy còn
lớn hơn, đau đớn hơn gấp bội với những nghiệt ngã mà các chị đã và đang phải
trải qua. Tôi thấy hơn lúc nào hết, tôi đồng cảm với các chị. Tôi thấy tôi bớt
bơ vơ và tôi thấy cuộc sống còn tràn đầy ý nghĩa. Và hồn thiêng sông núi không
hề trừu tượng siêu hình. Hồn thiêng sông núi chính là những tấc lòng, những hy
sinh của các chị, của các anh, các chú, các bác, đã cháy hết mình cho ngọn lửa
thiêng nóng bỏng niềm khao khát chuyển mình của quê hương.
Nay tôi viết đôi dòng tâm sự này
dành cho những người chị khả kính của tôi. Chị Thu Sương đã giúp cho vườn thơ ý
nhạc của tôi được nẩy lộc đâm chồi. Chị Thanh Nghiên đã cho tôi niềm tin về
ngày mai, niềm tin về lẽ phải, và niềm tin về công lý. Chị Ca Dao đã cho tôi
tình yêu thiết tha về con người, về đất nước. Và một người chị ẩn danh đã cho
tôi biết sự hào sảng của một trí tuệ và tình yêu tha thiết với quê hương. Và
tất cả những bài hát từ Hùng Ca đến Tù Ca, tôi xin viết và gởi đến nhũng chủ
nhân thật sự của chúng, đó là tất cả những người con của quê hương ở khắp mọi
nơi, đã và đang dấn thân cho một đất nước Việt Nam tự do, dân chủ, phú
cường.
Đêm Paris, rạng sáng ngày 14 Juillet
2015.
Hay quá. Cảm ơn.
ReplyDeleteTừ Yên