Pages

Tuesday, August 25, 2020

MỐI TÌNH ĐẦU CỦA CHỒNG

Nói thật là tôi (cũng chỉ) yêu thương chồng như tất cả những người vợ khác yêu chồng mình. Ai chả biết. Ý tôi muốn nói rằng tôi yêu ở thể ...bình thường, chứ không dở hơi đến mức ghen cả với quá khứ của chồng. Nhưng mà tôi tò mò thật. Sau nhiều lần tra hỏi, cuối cùng chồng tôi cũng “khai báo thành khẩn” về mối tình đầu của anh ấy. Không riêng về chuyện yêu đương của chàng (hôm nay lãng mạn gọi là “chàng” chứ không gọi là “lão” như mọi khi nữa), mà cuộc đời, hoàn cảnh, gia đình và mọi biến cố mà chồng tôi trải qua, đều gây cho tôi những ấn tượng đặc biệt. Đến nỗi tôi nghĩ rằng có thể viết thành một cuốn sách mang những giá trị riêng của nó. Vì những gì chồng tôi và gia đình anh đã trải qua không đơn giản là câu chuyện của một con người, nó mang bóng dáng về một giai đoạn lịch sử, một cái gì đó "chung" hơn là "riêng.



Đấy là chợt nghĩ trong đầu như thế, chứ viết sách đâu phải chuyện dễ làm. Dẫu sao, thỉnh thoảng “tố cáo” một tí về cuộc đời của chàng, nhất là chuyện yêu đương, kể cũng thú vị.


Qua lời “khai” của anh, tôi nổi hứng viết luôn câu chuyện về thuở đi học, về mối tình đầu tan vỡ của chồng. Úi xời, không tan vỡ thì tôi và chàng đâu có lấy nhau cơ chứ. Hì hì. Để câu chuyện hấp dẫn hơn, và cho việc hành văn được dễ dàng, người viết dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất là: “tôi”. Hiểu nôm na là anh Tú (nhân vật “tôi) kể lại và “mụ vợ” chấp bút, cũng được.

Chuyện thế này:


Cuối năm lớp 12, như các bạn khác, tôi cũng háo hức chuẩn bị cho việc nộp hồ sơ thi đại học. Trong một buổi ra chơi, cô Dung- giáo viên chủ nhiệm gọi tôi ra nói chuyện. Cô khuyên tôi không nên thi đại học vì sẽ chẳng có kết quả gì vừa mất thời gian, vừa tốn tiền của cha mẹ. Không phải cô Dung ghét bỏ hay trù úm gì tôi, mà hơn ai hết cô hiểu “luật bất thành văn” rằng với một học sinh nghèo như tôi, gốc gác “ngụy quân ngụy quyền”, không có thành tích nổi bật trong học tập thì việc thi cử sẽ chẳng đi đến đâu.



Tôi thật sự buồn, không hẳn do không có cơ hội đi học đại học. Tờ giấy lý lịch như một định mệnh ám ảnh tôi, suốt từ thời thơ ấu đến tuổi thanh niên, và đến tận bây giờ khi tuổi tôi đã ở bên kia triền dốc của cuộc đời.


Nghe lời khuyên của cô giáo chủ nhiệm, tôi không mơ tưởng đến giảng đường đại học nữa. Mùa hè năm 1987, tôi tốt nghiệp Trung học. Không cần chờ lấy bằng, tôi bắt đầu với nghề đạp xích lô. Nghề đạp xích lô không cần bằng cấp, cũng chẳng cần xét lý lịch gì cả. Đây là cuộc chuyển đổi nghề nghiệp lớn nhất cuộc đời tôi. Từ một cậu học trò phụ ba làm nước đá, sửa chữa điện lạnh, bây giờ một mình tôi sở hữu hẳn một chiếc xe xích lô, vừa làm chủ, vừa làm công.
Thời gian này thì tôi bắt đầu biết yêu. Cô gái ấy tên là Hằng, con gái bà chủ từng cho má tôi thuê mặt bằng mở đại lý bán gạo trước đó. Hằng là người gốc Hoa, xinh xắn, có nước da trắng và giọng nói rất nhẹ nhàng. Hồi đó, Hằng có một sập vải ở chợ An Đông. Nếu so sánh thì đúng là cuộc tình này không “môn đăng hộ đối”. Nhưng Hằng vẫn chấp nhận yêu một thằng đạp xích lô như tôi trong khi nàng có nhiều chàng trai khác theo đuổi. Tôi nhớ lần đầu tiên hẹn hò với nàng, tôi đã run rẩy nhường nào, lấy hết can đảm cuối cùng vẫn chẳng dám cầm tay. Tôi đem chuyện yêu đương tâm sự với cậu Thành. Cậu Thành mắng tôi ngu, rồi hiến kế: “Mày mua hạt dưa và kẹo cao su (Chewing gum), rủ nó đi xem phim. Rồi lúc mày đổ hạt dưa vào tay nó, đợi nó xòe tay ra hứng thì mày chộp. Còn chewing gum là ăn cho thơm miệng để dành cho lúc mày hôn nó”.



Tối thứ 7, tôi hẹn Hằng đi xem phim ở rạp Lao Động trên đường Trần Hưng Đạo, quận 5. Đèn đã tắt, phim đã chiếu mà tôi vẫn hồi hộp không dám ngồi sát nàng. Nhớ lời dặn của cậu Thành, tôi lấy gói hạt dưa đã cất trong túi quần ra, mời nàng. Khi Hằng chìa bàn tay hứng hạt dưa, tôi đã muốn “chộp” như lời cậu tôi xúi, nhưng không đủ can đảm. Tôi lại tự an ủi mình, thôi thì chờ đến giai đoạn hai là ăn chewing gum để hôn luôn một thể. Nhưng Hằng ăn lâu quá, (thì nàng cũng phải e thẹn chứ), nên tôi nóng ruột phải ăn phụ. Để ăn cho nhanh, tôi nhai và nuốt luôn cả vỏ. Số hạt dưa trên tay nàng chỉ còn lại vài hạt thì cũng vừa lúc hết phim. Mấy thanh kẹo chewing gum vẫn còn nguyên trong túi quần.
Lần hẹn hò thứ hai của tôi lại về không. Vừa về đến nhà, đã thấy cậu Thành đứng chờ. Cậu hỏi, vẻ hồi hộp: “thế nào, hôn chưa, hôn chưa?” Tôi buồn bã lắc đầu. Tôi kể lại diễn biến cuộc hẹn hò, một lần nữa tôi lại bị cậu rủa là ngốc. Cậu bảo “ ai bảo mày đổ một lần hết túi hạt dưa vào tay nó. Mày phải chia ra chứ. Đổ cả vốc thế thì đợi đến bảy bộ phim cũng không hết được, làm gì có cơ hội hôn nó”. Đúng là tôi ngốc thật, nhưng lẽ ra cậu Thành phải dặn tôi thật kỹ từ ban đầu chứ, giờ mới nói có ích gì.



Nếu gia đình tôi không đi vượt biên, có lẽ tôi và Hằng đã nên vợ nên chồng. Trong suốt 5 năm yêu nhau, có lần tôi đã nói lời chia tay với nàng. Không phải tôi hết yêu nàng, mà vì tôi mặc cảm thân phận mình nghèo khó, lấy tôi Hằng sẽ khổ. Tôi đã cố lảng tránh, không gặp nàng mấy tháng trời. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng tôi đã quá yêu Hằng và nàng rất đau khổ khi phải xa tôi. Đến khi chuẩn bị bàn chuyện cưới hỏi thì tôi bỏ xứ, theo gia đình vượt biên vào đầu năm 1992.
Có lẽ tội lỗi lớn nhất trong cuộc đời tôi là đã ruồng bỏ người mình yêu. Năm 1999 tôi trở về Việt Nam để làm nhiệm vụ do Tổ chức giao, tôi đã nghĩ đến Hằng nhưng không dám đi tìm vì sợ nguy hiểm cho nàng. Ra tù, tôi càng không dám đi kiếm vì sợ nàng bị liên lụy. Không gặp ai để hỏi thăm về cuộc sống của Hằng, nhưng có lẽ nàng cũng đã chồng con đề huề. Nếu thế thì tôi cũng đỡ day dứt, ân hận vì từng gây đau khổ, làm lỡ dở cuộc đời Hằng.


(Hình chụp cùng em Nghiên, không phải em Hằng mối tình đầu)





No comments:

Post a Comment