Buổi chiều hôm ấy, đúng rồi,
là một buổi chiều muộn. Tôi nhớ rõ như thế. Mẹ tôi quẩy đôi quang gánh trên
vai, tay dắt theo một người đàn bà điên. Đúng là người đàn bà từ sáng tới giờ vẫn
quẩn quanh ở khu tập thể này, vừa đi vừa nói nhảm. Thỉnh thoảng lại cúi xuống
nhặt bất cứ thứ gì chị ta nhìn thấy dưới đất rồi bỏ vào miệng. Đôi quang gánh mẹ
tôi quẩy về, còn nằm chỏng gọng ra đấy mấy mớ rau muống ế. Thế là bữa cơm tối
nay, lại sẽ ăn rau độn.
Lần nào cũng vậy, hễ thấy
mẹ về là mấy chị em tôi đều ngó trân trân vào đôi quang gánh. Và hồi hộp đợi chờ.
Rồi cảm xúc vui buồn, lo lắng hay mừng rỡ cứ xuôi theo đôi quang gánh của mẹ.
Đôi quang gánh nhẹ bẫng với chiếc sảo (*) trống rỗng có nghĩa là mẹ tôi đã bán
hết hàng, cả nhà sẽ không phải ăn khoai hay ăn rau trừ bữa. Gương mặt chị em
tôi sẽ sáng bừng lên nếu trông thấy thấp thoáng trong cái sảo là con cá, bìa đậu,
vài lạng tép săm hay ít thịt mỡ. Bữa cơm hôm ấy có tí chất tanh, sang phải biết.
Nhưng ít khi được thế. Buồn nhất là mỗi ngày tàn, mẹ tôi về nhà vẫn gánh theo
vài mớ rau chưa bán hết. Ế hàng, cơm còn thiếu lấy đâu cá với tép săm mà ăn.
Bao nhiêu nỗi buồn tênh lẫn khấp khởi vui mừng của những buổi chiều muộn cứ bám
lấy tôi suốt tuổi thơ như thế. Tôi thấy thương, thương biết mấy nỗi nhọc nhằn của
mẹ. Cho đến bây giờ khi đã qua tuổi 40, tôi vẫn không nguôi đắm đuối về căn gác
chật chội trong khu tập thể nghèo, nơi bố mẹ và mấy anh chị em chúng tôi sống
chật vật nhưng đầm ấm xiết bao.
Hôm nay, mẹ tôi dắt theo
người đàn bà điên.
Không hiểu tại sao mẹ tôi
dắt người đàn bà điên, vừa bẩn thỉu vừa hôi hám ấy về nhà? Chị ta cũng không
ngoan ngoãn đi theo mẹ tôi đâu. Thỉnh thoảng, chị ta lại vùng vằng, leo được
vài bậc thang lại toan chạy xuống. Mẹ tôi phải nịnh nọt, nắm chặt bàn tay nhớp
nhúa ấy kéo lên gác. Nhà tôi tận trên tầng 4, chắc chị ta cũng mỏi chân.
Bố tôi ra mở cửa, gỡ đôi
quang gánh khỏi vai mẹ. Ông không hỏi vì sao mẹ tôi “tha” người đàn bà điên ấy
về. Làm như điều ấy chẳng có gì lạ. Mẹ tôi, tay vẫn không rời người đàn bà
điên. Tôi đứng nép vào tường, vừa hiếu kỳ, vừa sợ sệt quan sát từng cử chỉ của
mẹ và của người đàn bà ấy.
Nhiều người, và cả tôi nữa,
đã thấy chị ta lang thang, quanh quẩn ở khu tập thể này từ sáng tới giờ. Người
ta biết chị bị điên vì trên người mặc độc một chiếc quần lót cắt bằng vải phin
màu trắng. Nhưng cái “màu trắng” ấy đã chuyển sang màu bùn đất. Hai quả vú thỗn
thệ, chảy xuống tận bụng. Mái tóc từng được uốn xoăn, ngắn đến ngang cằm bê bết
những đất và rối bù. Khắp người chị ta bốc lên mùi hôi hám, khăm khẳm hết sức
khó chịu. Thỉnh thoảng, chị ta lại đưa tay tự bấu vào đầu vú mình, rồi nhăn nhó
vì đau hoặc lại cười khanh khách. Chị ta điên đến nỗi không gợn một chút gì của
cái cảm giác xấu hổ về sự loã lồ của mình.
Đầu tiên, người lớn còn
bàn tán, hoặc xúm vào hỏi han chị ta. Nhưng chị ta toàn nói nhảm, nói những câu
không ai hiểu được. Rồi ai làm việc người nấy, bỏ mặc người đàn bà lem luốc, bẩn
thỉu trở lại với sự quẩn quanh, cười cười nói nói một mình.
Đám trẻ con lẽo đẽo đi
theo chị ta, trêu chọc. Bọn thằng Hoàn “bội”, Toàn “béo” còn lượm gạch đá ném
vào người chị ta, rồi nhe răng cười khoái chí với nhau. Đến hồi người đàn bà
kia đuổi theo, hai đứa nó co cẳng chạy. Thằng Toàn “béo” chạy về đến nhà, đóng
chặt cửa lại, khóc tu tu. Thằng ấy chúa nhát.
Tôi không biết người đàn
bà điên kia bao nhiêu tuổi, ở đâu, vì sao mà điên. Tôi ước chừng chị ta khoảng
ngoài hai mươi tuổi. Còn tôi, năm ấy (có lẽ) lên 9, lên 10 tuổi gì đấy.
Mẹ tôi kéo người đàn bà
điên vào bếp, ấn chị ta ngồi xuống rồi múc từng gáo nước xối lên đầu, lên người
chị ta. Mẹ tôi tắm rửa, kỳ cọ cho người phụ nữ không quen biết, lại bị điên, bằng
sự tỉ mỉ, ân cần như chăm sóc cho một đứa trẻ.
Chị Phượng từ trên nhà
ngó xuống bếp, mỗi lần thấy mẹ tôi múc một gáo nước dội lên người đàn bà điên,
lại một lần rên rỉ vì tiếc. Hàng ngày, chị Oanh, chị Phượng sau khi đi làm về đều
phải gánh nước từ dưới gác lên tầng 4 cho cả nhà dùng.
-Oanh lấy cho mẹ bộ quần
áo cũ trong hòm ra đây.
Mẹ tôi vừa lau mình cho
người đàn bà điên, vừa nói với chị gái tôi.
Chị tôi mở nắp hòm, lấy bộ
quần áo cũ (vả lại cũng làm gì có đồ mới) đưa cho mẹ tôi. Nhà nghèo, không có tủ
nên chúng tôi phải đựng quần áo vào chiếc hòm sắt. Khoảng 20 năm sau, tôi đi tù
(vì chống chế độ) cũng đựng quần áo, đồ dùng, và thức ăn vào cái hòm giống như
thế.
Người đàn bà điên đã được
tắm rửa sạch sẽ. Nhưng chị ta không chịu mặc bộ quần áo mẹ tôi cho mà nằng nặc
đòi mặc lại chiếc quần lót cũ bẩn thỉu và ướt nhẹp kia. Nịnh thế nào cũng không
được.
Tôi nhớ rất rõ bữa cơm hôm
ấy chỉ có duy nhấy món rau bắp cải xào. Mẹ tôi cho người đàn bà điên ngồi cùng
mâm cơm. Bà không quan tâm xem thái độ của mấy bố con tôi thế nào. Nhưng từ bố
tôi, đến các anh chị hình như không ai khó chịu. Ai cũng coi việc làm của mẹ là
bình thường, và mọi người cần đồng tình với điều ấy. Lên chín tuổi, tôi chưa hiểu
thế nào là đạo lý. Tôi chỉ đơn giản hiểu rằng, người đàn bà ấy bị điên, mẹ tôi
thương nên dẫn về nhà. Thế thôi. Song thú thực, tôi không thể nuốt nổi miếng
cơm nào khi ngồi cùng mâm với chị ta. Phần vì khó chịu cái mùi bốc ra từ cơ thể
ấy, phần vì sợ. Tôi nhớ như in cảnh chị ta đuổi thằng Toàn “béo” lên tận cửa
nhà nó. Vừa đuổi vừa la hét, giơ cánh tay lên đòi đánh thằng bé.
Mẹ tôi đơm cơm vào bát ô
tô, trộn ít rau bắp cải xào đưa cho chị ta. Vừa ăn, người đàn bà điên vừa lẩm bẩm
“ăn cơm với thịt gà, ăn cơm với thịt gà, ăn cơm với thịt gà...”. Rồi lại cười một
mình. Ăn được vài miếng, chị ta vứt bát ngay tại mâm, cơm văng ra tung toé. Chị
ta đứng phắt dậy, lao ra ngoài, đập cửa thình thịch rồi la hét ầm ĩ. Mẹ, rồi
các chị tôi nịnh nọt cũng không nghe. Cuối cùng, mẹ tôi phải mở cửa cho chị ta
đi. Người đàn bà điên lao như bay xuống các bậc thang. Tôi chạy ra hành lang
nhìn xuống đất, thấy chị ta (lúc này đã hơi khang khác vì vừa được tắm gội sạch
sẽ) khuất dạng về phía đầu hồi khu tập thể. Chị ta xuất hiện trong nhà tôi vào
buổi chiều muộn. Và chạy biến đi khi trời vừa chạng vạng tối.
Trong tôi chợt dấy lên sự
lo lắng. Rồi chị ta sẽ đi đâu? Có ai nắm lấy đôi bàn tay nhớp nhúa, bẩn thỉu của
chị ta như mẹ tôi đã ân cần thế không? Rồi lỡ có kẻ xấu làm hại chị ta thì sao?
Liệu người đàn bà điên ấy có gặp lũ trẻ nào nghịch ngợm tai quái, cầm que, cầm
gạch doạ nạt như bọn thằng Hoàn “bội”, thằng Toàn “béo” không?
Tôi thôi nhìn xuống gác,
trở vào nhà, lại đứng nép vào tường. Một cảm giác buồn tê dại chiếm lấy tâm hồn
bé nhỏ của tôi. Bố mẹ và các chị tôi đang đứng ở cửa nói chuyện với cô chú hàng
xóm. Cô Loan nhà kế bên nói với mẹ tôi:
-Hình như nhà con này ở gần
Ngã Năm (**) thì phải. Nghe đâu bị người yêu ruồng bỏ nên phát điên.
-Thế gia đình còn ai
không? Lang thang như thế, gặp bọn xấu thì khổ. Mẹ tôi hỏi cô Loan, vẻ ái ngại.
-Nào em có biết đâu. Thấy
người ta đồn như thế. Mà chị cũng bạo thật đấy, hết đưa ăn xin rồi lại dẫn người
điên về nhà. Nó điên, biết cái gì, lỡ nó vung tay đánh mình một cái thì sao. Cô
Loan trách mẹ tôi.
-Chị đi chợ về, thấy nó
đang nằm ở đầu hồi ấy. Trông tội quá. Mình cũng chỉ tắm rửa, cho ăn bữa cơm
thôi. Định hỏi xem nhà nó ở đâu rồi kiếm cách giúp nó tìm lại gia đình. Mà nó
chẳng hiểu gì, cứ nói luyên thuyên. Con trai nhà nào mà tệ thế, phải tội chết.
Làm hỏng một đời người ta.
Mẹ tôi thở dài.
-Xã hội bây giờ nó thế chị
ạ. Hy vọng là con bé đó tìm được về nhà. Từ đây lên Ngã Năm cũng gần ấy mà.
-Ừ, hy vọng thế.
-Hôm nay ế rau hả chị? Vậy
bán cho em một mớ rau muống, mai thằng Tuấn ở nhà nấu. Trưa mai em về ăn cơm.
Mẹ tôi mang cho cô mớ rau
vẫn còn tươi nguyên.
-Cô cầm lấy mà ăn, chị em
với nhau mua bán gì.
Mọi người lại lục tục kéo
nhau vào nhà, ngồi xuống mâm cơm còn đang ăn dở. Mẹ tôi cứ xuýt xoa về người
đàn bà điên ấy mãi. Bố tôi, lúc này mới trách:
-Bà làm thế con Liên (***)
nó sợ. Lần sao bà có đem người điên nào về, thì cho ngồi ăn riêng. Mà nhà mình
cơm ăn còn thiếu, bà cứ rộng rãi quá, con mình khổ.
-Cũng chỉ cho người ta một
bát cơm chứ có gì đâu mà ông cằn nhằn. Năm thì mười hoạ mới gặp một lần. Thấy
những cảnh ấy tôi không nỡ. Để người ta ngồi riêng trong khi cả nhà mình quây
quần thì thà không cho người ta ăn lại còn hơn.
Mải lo cho người đàn bà
điên, đến lúc nghe bố tôi nhắc “con Liên nó sợ”, mẹ tôi mới sực nhớ ra.
Bà bước đến bên tôi lúc
này vẫn đang đứng mút tay, lưng dựa sát vào tường, hai mắt đỏ hoe chực khóc.
Tôi có tật xấu là hay mút tay, nhất là những lúc xấu hổ hay cảm thấy tủi thân.
Thói quen mút tay, mãi đến khi học cấp hai tôi mới bỏ được.
Mẹ tôi cười, nửa vỗ về, nửa
như chọc quê tôi:
-Trông kìa, có thế mà
cũng sợ. Chị ấy bị điên, khổ thân lắm con.
Được mẹ hỏi han, miệng
tôi méo xệch, mếu máo. Nhưng tôi không khóc vì sợ mẹ buồn. Với lại mẹ tôi đã
nói “có thế mà cũng sợ”, thì tôi phải cố nén. Tôi mà khóc, các anh chị tôi sẽ
hùa nhau mà trêu chọc. Thực tình thì lúc ấy, tôi đã bớt sợ hơn, nhưng tủi thân
quá. Tôi biết là không nên ganh tị với người điên kia, nhưng tôi đã quá quen với
việc hàng ngày được mẹ ôm ấp, nựng nịu mỗi khi bà tan chợ. Hôm nay tôi bị ra
rìa.
Mẹ kéo tôi ngồi cạnh bà
bên mâm cơm. Tôi đã quá quen với những bữa cơm chỉ có rau, hoặc khoai độn.
Nhưng hôm nay, tôi không nuốt nổi vì cảm giác người đàn bà điên vẫn đang ngồi
ăn cùng, dơ dáy và bẩn thỉu.
Mẹ tôi bưng bát cơm thừa
của người đàn bà điên lên, định ăn. Bố tôi gàn:
-Bà bỏ đi. Người ta bẩn
thỉu, bệnh tật thế, bà còn tiếc.
Mẹ tôi bỏ bát cơm ấy đi,
nhưng vẫn tiếc.
Từ lần đấy, tôi không bao
giờ trông thấy người đàn bà điên ấy nữa. Khoảng một năm sau, cũng vào buổi chiều
muộn, mẹ tôi (lúc này không còn đi bán rau nữa, mà chuyển sang bán than) vừa về
tới nhà, đã khoe:
-Lúc sáng kéo xe than đi
qua Cửa Hàng Gạo (***) thấy con bé điên ngày xưa bế một đứa trẻ, đang ngồi cho
nó bú.
Sáng hôm sau tôi đi học,
thấy người đàn bà điên năm nào đang ngồi trên bậc thềm ở Cửa Hàng Gạo. Trên tay
là đứa trẻ sơ sinh. Chị ta đang cho nó bú. Người đàn bà điên ấy không còn mặc độc
một chiếc quần lót cắt bằng vải phin nữa. Trên người chị ta là bộ quần áo bảo hộ
lao động, cũ kỹ và rách bươm. Bộ quần áo không biết chị ta nhặt ở đâu, hay có
người cho. Vẫn là mái tóc xoăn ngang cằm bê bết, bẩn thỉu. Bên cạnh chị ta, đùm
túm nào chiếu, nào túi vải với lỉnh kỉnh những đồ dùng chắc chỉ có người điên mới
cần đến. Có cả mấy thứ cho đứa bé.
Tôi ôm chặt chiếc cặp
sách, đứng lặng người. Từ xa, tôi cố rướn mắt để nhìn cho rõ đứa bé chị ta đang
ẵm. Chợt có mấy người phụ nữ từ đâu đi tới, người thì đá chân chị ta, người
khác thò tay vào giằng đứa trẻ. Người mẹ điên gào thét, những âm thanh thống
thiết, ghê sợ. Tiếng gào thét không hẳn của một con người. Đứng ở góc này, tôi
kinh hãi và bất lực. Chị ta ôm chặt lấy con, ánh mắt trừng lên giận dữ, lẫn vẻ
hoảng sợ.
Tôi run lên cầm cập. Tôi
thương người đàn bà điên và căm ghét hai kẻ bắt cóc trẻ con kia. Tôi cũng không
biết là mình đã khóc tự bao giờ. Tuổi tôi, tâm hồn bé nhỏ của tôi ngày ấy còn
biết làm gì ngoài việc khóc lóc. Nhưng tôi không phải khóc lâu. Hai người phụ nữ
kia không phải bọn bắt cóc trẻ con như tôi nghĩ lúc ban đầu. Họ kiếm sống ở khu
Cửa Hàng Gạo này, họ quen thuộc với người đàn bà điên. Thỉnh thoảng, họ lại kiếm
chuyện trêu chị ta rồi cả bọn phá lên cười với nhau. Họ khoái nhất là chơi trò
“cướp con” để được xem cảnh người mẹ điên bảo vệ con mình. Mỗi lần chơi
trò “cướp con” xong, họ đều trầm trồ khen “con điên này khôn thật. Đố ai động
được vào con nó”.
Tôi thở phào. Người đàn
bà điên ngồi nép vào tường, đôi bàn tay đen đúa ôm con chặt hơn. Đứa bé không
khóc, vẫn ngủ ngon lành trên tay mẹ.
Tôi biết về cuộc đời người
đàn bà điên qua những câu chuyện người ta bàn tán với nhau. Chị ta bị điên
tình. Chị từng yêu say đắm một anh chàng cũng từng yêu chị say đắm như thế. Họ
đã định ngày cưới nhưng đùng một cái, anh chàng phản bội người yêu để đi lấy
người khác. Đám cưới bị huỷ bỏ. Chị ta phát điên. Từ đó, chị cứ bỏ nhà đi lang
thang. Bố mẹ, rồi anh chị em bao phen phải cất công đi tìm. Họ nhốt người đàn
bà điên trong phòng. Nhưng chị ta vẫn trốn được ra ngoài để đi lang thang, sống
kiếp người điên. Lúc mới phát bệnh, gia đình cũng chạy chữa. Hết đi bệnh viện rồi
lại gõ cửa hết ông thầy lang này đến ông thầy cúng kia, vẫn không mang lại kết
quả gì. Nghe người ta xúi, bệnh điên là do “ma làm”, ma sợ roi dâu tẩm nước tiểu.
Thế là bố và anh trai chị ta trói người đàn bà tội nghiệp ấy vào gốc cây, rồi cứ
roi dâu tẩm nước tiểu mà quất. Không thấy con ma nào chạy ra khỏi cơ thể người
phụ nữ ấy người. Chỉ thấy mỗi lần bị đánh, người đàn bà tội nghiệp kia lại thống
thiết kêu gào đau đớn, người ngợm bầm tím và rỉ máu. Đánh mãi, không hết điên.
Rồi cũng chán.
Khoảng một năm trước, gã
đàn ông khốn nạn nào đó đã hại chị ta. Người ta điên dại, bẩn thỉu như thế nó
cũng không tha. Cái bụng người đàn bà điên cứ lớn dần lên.
Từ ngày có con, chị ta
không lang thang xa nữa. Cứ quẩn quanh ở mấy khu chợ, Cửa Hàng Gạo hoặc Ngã
Năm. Tức là gần ngôi nhà ruột thịt của chị. Người dân ở đấy kẻ thì cho đồ ăn,
người khác cho tã lót hay manh quần tấm áo. Không ai cho tiền vì chị ta toàn xé
rách hoặc ném đi. Có con, người đàn bà điên bớt bị người đời đùa ác ý, đánh đập
hay ném đá vào người. Tất nhiên ngoại trừ trò đùa “cướp con” của mấy người phụ
nữ kiếm ăn gần đấy. Người ta không giải thích nổi vì sao một người đàn bà điên loạn
như thế lại có thể yêu con tột cùng như vậy. Nó trong sáng, hồn nhiên và vô
cùng vĩ đại. Người mẹ điên ấy, yêu con hơn bất cứ người mẹ bình thường nào. Dường
như chị ta dùng toàn bộ sức mạnh và cả sự điên loạn của mình để bảo vệ con, để
yêu con.
Thỉnh thoảng, trên đường
đi học, tôi vẫn trông thấy chị ta bế con ngồi ở Cửa Hàng Gạo. Mỗi lần như thế
tôi lại thấy an tâm hơn. Tôi sợ chị ta đi mất. Tôi sợ không còn trông thấy đứa
trẻ. Và mẹ tôi, thỉnh thoảng vẫn mang cho chị ta bộ quần áo cũ, đồ ăn, chai nước
hoặc thứ gì đó cho em bé.
Rồi một hôm, trên đường
đi học, tôi không còn trông thấy hai mẹ con người đàn bà điên ấy đâu nữa. Người
thì nói chị ta được gia đình đón về, nhốt trong nhà. Có người lại bảo chị ta
tha con đi lang thang ở một nơi khác.
Tôi bần thần bao nhiêu
ngày. Hình ảnh người đàn bà điên bế đứa trẻ sơ sinh, non nớt trên tay làm tôi bị
ám ảnh. Tôi như người mất trí, có lúc lại như người tương tư. Tôi nhớ thương họ.
Giá như tôi là người lớn và thật giàu có. Nếu tôi giàu có, và là người lớn thì…
Ơi người Mẹ Điên ơi! Ơi đứa
con khốn khổ ơi!
Xoáy vào tâm can tôi đến
giờ.
Chú thích:
(*) Sảo: Vật dụng được
đan bằng nan tre, to khoảng bằng chiếc mâm ăn cơm, nông lòng.
(**) Ngã Năm:Từ Ngã Năm
đi ra nhiều con đường. Nhà tôi ở đường Đà Nẵng, cách Ngã Năm chừng hơn một cây
số.
(***): Liên: Tên thường gọi
của tôi ở nhà.
(****) Cửa Hàng Gạo: Nơi
cung cấp gạo, lương thực cho người dân địa phương thời bao cấp.
No comments:
Post a Comment